| Tiêu đề: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:08 am |
| | | | | Nước ta buổi đầu độc lập
1. Ngô Quyền dựng nền độc lập Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), mưu đồ xâm lược của quân Nam Hán bị đè bẹp, năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, chọn Cổ Loa làm kinh đô. Hơn 10 thế kỉ thống trị của các triều đại phong kiến phương bắc đã chấm dức. Nền độc lập và chủ quyền của đất nước được giữ vững. Ngô Quyền quyết định bỏ chức tiết độ sứ của phương Bắc, thiết lập một triều đình mới ở Trung Ương. Vua đứng đầu triều đình, quyết định mọi công việc chính trị, ngoại giao, quân sự; đặt ra các chức quan văn, võ, quy định các lễ nghi trong triều và màu sắc trang phục của quan lại các cấp. Ở địa phương, Ngô Quyền cử các tướng có công coi giữ các châu quan trọng. Đinh Công Trứ làm Thứ sử châu hoan (Nghệ An, Hà Tĩnh), Kiều Công Hãn làm Thứ sử châu phong (Phú Thọ)
2. Tình hình chính trị cuối thời Ngô Năm 944, Ngô Quyền mất, hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn còn trẻ, không đủ uy tính và sức mạnh để giữ vững chính quyền trung ương. Một viên quan là Dương Tam Kha đã tiếm quyền, tự xưng là Bình Vương, Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Các phe phái nổi lên khắp nơi, đất nước lâm vào tình trạng không ổn định. Năm 950, Ngô Xương Văn được sự ủng hộ của các tướng lĩnh đã lật đổ được Dương Tam Kha, giành lại ngôi vua. Xương Văn mời anh về cùng nhau trông coi việc nước. Song, do mâu thuẫn nội bộ, uy tín nhà Ngô bị giảm sút. Năm 965, Ngô Xương Văn chết. Cuộc tranh chấp giữa các thế lực các cứ, thổ hào địa phương vẫn tiếp diễn. Lúc đó, đất nước rơi vào tình trạng chia cắt, hỗn loạn của 12 tướng lĩnh chiếm cứ các vùng địa phương, đánh lẫn nhau, sử cũ " Gọi là "Loạn 12 sứ quân", đó là: 1. Ngô Nhật Khánh chiếm giữa Đường Lâm (thị xã Sơn Tây ngày nay) 2. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (Phú Thọ ngày nay) 3. Kiều Thuậ giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê- Phú Thọ ngày nay) 4. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (Vĩnh Tường- Vĩnh Phúc ngày nay) 5. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh ngày nay) 6. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì- Hà Nội ngày nay) 7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành- Bắc Ninh ngày nay) 8. Lữ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang- Hưng Yên ngày nay) 9. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Kim Động- Hưng Yên ngày nay) 10. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (Quốc Oai- Hà Tây ngày nay) 11. Trần Lãm giữ Bố Khải Khẩu (thị xã Thái Bình ngày nay) 12. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Triệu Sơn- Thanh Hóa ngày nay)
3. Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước Trong hoàn cảnh nói trên, tại đất Hoa Lư (Ninh Bình) xuất hiện Đinh Bộ Lĩnh- Người sau này lập ra nhà Đinh. Nhờ sự ủng hộ của nhân dân, Đinh Bộ Lĩnh liên kết với sứ quân của Trần Lãm, chiêu dụ được sứ quân Phạm Bạch Hổ, tiến đánh các sứ quân khác. Là người có tài, lại được nhân dân nhhieefu địa phương giứp sức, ủng hộ, ông đánh đầu thắng đấy, được tôn là Vạn Thắng Vương. Các sứ quân lần lượt bị đánh bại hoặc xin hàng. Tình trạng cát cứ chấm dứt. Cuối năm 967, đất nước trở lại bình yên, thống nhất. Nước Đại Cồ Việt thời Đinh- Tiền Lê
I. Về tình hình chính trị- quân sự
1. Nhà Đinh xây dựng đất nước Năm 968, công cuộc thống nhất đất nước đã hoàn thành, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), đóng đô tại Hoa Lư (huyện Hoa Lư- Ninh Bình. Mùa xuân năm 970, vua Đinh đặt niên hiẹu là Thái Bình, sai sứ sang giao hảo với nhà Tống. Đinh Bộ Lĩnh phong vương cho các con, cử các tướng lĩnh thân cận như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Lê Hoàn... nắm giữ các chức vụ chủ chốt. ông cho xây dựng cung điện, đúc tiền để tiêu dùng trong nước; đối với những kẻ phạm tội, thì dùng những hình phạt khắc nghiệt nhu ném vào vạc dầu sôi, hay vứt vào chuồng hổ....
Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh
2. Tổ chức chính quyền thời tiền Lê Cuối năm 979, nội bộ triều Đinh xảy ra một số biến cố. Đinh Tiên Hoàng và con trai Đinh Liễn bị ám hại. Vua mới còn nhỏ, Lê Hoàn được cử l;àm hpuj chính. Một số tướng dấy binh chống lại, đã bị Lê Hoàn đánh bại. Nhân cơ hội đó, nhà Tống (ở Trung Quốc) lăm le xâm phạm bờ cõi Đại Cồ Việt. Trước tình thế hiểm nghèo, các tướng lĩnh và quân đội đồng lòng suy tôn Lê Hoàn lên làm vua để chỉ huy kháng chiến. Lê Hoàn (Lê Đại Hành) đổi niên hiệu là Thiên Phúc, lập nên nhà Lê, sử cũ gọi là tiền Lê Triều đình trung ườg do vua đứng dầu, nắm rõ mọi quyền hành về quân sự và dân sự. Giúp Lê Hoàn bàn việc nước có thái sư (quan đàu triều) và đại sư (nhà sư có danh tiếng). Dưới vua là các chức quan văn, quan võ; các con vua được phong vương và trấn giữ các vùng hiểm yếu Về đơn vị hành chính, cả nước được chiaa làm 10 lộ. Dưới lộ có phủ và châu. Hầu hết quan lại đều là võ tướng. Các quan lại địa phương chưa được sắp xếp đầy đủ. Nhà Lê chú ý xây dựng một đội quân mạnh để bảo vệ chính quyền Trung Ương. Quân đội gồm 10 đạo và hai bộ phận: cấm quân (quân của triều đình) bảo vệ vua và kinh thành), quân địa phương đóng tại các lộ, luân phiên nhau vừa luyện tập vừa làm ruộng. 3. Cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn Đầu năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy theo hai đường thủy, bộ tiến đánh nước ta: quân bộ theo đường Lạng Sơn, còn quân thủy theo đường sông Bạch Đằng. Lê Hoàn trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ông cho quân đóng cột ở sông Bạch Đằng để ngăn chặn chiến thuyền dịch. Nhiều trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra trên sông Bạch Đằng, cuối cùng, thủy quân địch bị đánh lui. Trên bộ, quân ta cũng chặn đánh Tống quyết liệt; hown nữa, chúng không thể kết hợp được với quân thủy nên bị tổn thất nặng, buộc phải rút quân về nước. Thừa thắng, quân ta truy kích tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Quân Tống đại bại, tướng Hầu Nhân Bảo bị giết chết và nhiều tướng khác bị bắt sống. Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi. Đây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của chính quyền độc lập còn non trẻ. Thắng lợi này không chỉ biểu thị ý chí quyết tâm choosng ngoại xâm của quân nhân ta, mà còn chứng tỏ một bước phát triển của đất nước và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại Cồ Việt. Chiến tranh chấm dứt, Lê Hoàn sai sứ sang Trung Quốc giao trả một số tù binh và đặt lại quan hệ bình thường | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:09 am |
| | | | | II. Sự phát triển kinh tế và văn hóa
1. Bước đầu xây dựng nền kinh tế tự chủ
Thời Đinh- Tiền Lê, ruộng đất nói chung thuộc sở hữu của làng xã. Nhân dân trong làng, theo tập tục, chia ruộng đều cho nhau để cày cấy và nộp thuế, đi lính và làm lao dịch cho nhà vua. Hằng năm vào mùa xuân, vua Lê thường về địa phương tổ chức lễ cày tịch điền và tự mình cày mấy đường để khuyến khích nhân dân sản xuất. Việc khai khấn đất hoang được mở rộng. Nhà Lê cũng chú ý vào vết kênh ngòi ở nhiều nơi, vừa thuận lợi cho việc đi lại, vừa tiện tưới tiêu cho đồng ruộng. Do đó, nông nghệp ngày càng ổn định và bước đầu phát triển. Mùa lúa các năm 987, 989 đều tốt. Nghề trồng dâu, nuôi tằm cũng được khuyến khích.
Thế kỉ X, nước Đại Cồ Việt đã xây dựng mọt số xưởng thủ công nhà nước, chuyên chế tạo các sản phẩm phục vụ nhu cầu của vua quan. Trong những xưởng đúc tiền, rèn vũ khí, may mũ áo và công việc xây dựng cung điện, nhà cửa, chùa chiền... đã tập trung được nhiều thợ khéo trong nước. Kinh đô Hoa Lư rất tráng lệ, theo sử cũ ghi: Dựng điện Bách Bảo thiên tuế ở núi Đại Vân, cột dát vàng, bạc là coi chầu; phía đông là điện Phong Lưu, phía tây là điện Tử Hoa, bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc. Ngoài ra, còn có lầu Đại Vân, điện Trường Xuân, điện Long Lộp bằng ngói bạc. Gần động Thiên Tôn có đầi Kính Thiên làm nơi tế cáo trời đất. Xung quanh kinh thành có tường thành xây bằng gạch, hoặc đắp bằng đất đá. Trong thành, còn có một số ngôi chùa như như chùa Thất Trụ, các kho vũ khí hoặc kho đồ dùng hằng ngày, kho thóc thuế..... Trong nhân dân, các nghề thủ công cổ truyền tiếp tục phát triển như nghề dệt lụa, kéo tơ, làm giấy, làm đồ gốm... Thời Đinh- Tiền Lê đều cho đúc tiền đồng để cho tiêu dùng trong nước. Thuyền buôn nước ngoài đã đến Đại Cồ Việt buôn bán. Nhiều trung tâm buôn bán và chợ làng quê được hình thành ở các địa phương. Quan hệ bang giao Việt- Tống được thiết lập. Nhân dân miền biên giới hai nước tiếp tục qua lại trao đổi hàng hóa với nhau. Đền thờ vua Lê
2. Đời sóng xã hội và văn hóa Trong xã hội, vua và các quan văn, võ (cùng một số nhà sư) tạo thành bộ máy thống trị. Những người bị trị gồm nông dân, thợ thủ công, người làm nghề uôn bán nhỏ và một số ít địa chủ. Đa số nông dân là những người dân tự do, cày ruộng nông làng xã, có quyền lợi gắng bó với làng, với nước. Nô tì, số lượng không nhiều, là tầng lớp cuối cùng của xã hội. Cuộc sống của nhân dân còn đơn giản, bình dị Giáo dục chưa phát triển. Nho học đã xâm nhập vào nứoc ta, nhưng chưa tạo được ảnh hưởng đáng kể. Đã có một số nhà sư mở các lớp học trong chùa. Đạo phật được truyền bá rộng rãi. Các nhà sư thường là người có học, giỏi chữ Hán, được nhà nước và nhân dân quý trọng. Những đại sư như Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận, Vạn Hạnh được trọng dụng như những cố vấn cung đình, những nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua, nhất là trong các dịp đón tiếp các sứ thần nhà Tống.
Chùa chiền được xây dựng ở nhiều nơi. Tại kinh đô Hoa Lư có các chùa Bà Ngô, chùa Tháp, chùa Nhất Tự.... Nhiều loại hình văn hóa dân gian đã tồn tại trong thời Đinh- Tiền Lê như ca hát, nhảy múa, đua thuyền, đánh đu, đấu võ, đánh vật. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:10 am |
| | | | | NƯỚC ĐẠI VIỆT THỜI LÝ
I. Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước
1. Sự thành lập nhà Lý Năm 1005, Lê Hoàn mất, Lê Công Đĩnh lên ngôi vua. Cuối năm 1009, Lê Công Đĩnh qua đời. Triều thần chán ghét nhà Tiền Lê, vì vậy các tăng sư và đại thần, đứng đầu là sư Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc, tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Nhà Lý thành lập. Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp (Từ Sơn- Bắc Ninh). Thưở nhỏ làm con nuôi nhà sư Lý Khánh Văn, theo học ở chùa Lục Tổ của sư Vạn Hạnh. Sau đó làm quan cho nhà Lê, giữ đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư. Ông là người có học, có đức và có uy tín nên được triều thần nhà Lê quý trọng. Năm 1010, Lý Công Uẩn đặt niên hiệu là Thuận Thiên và quyết định dời đô về Đại La (nay là Hà Nội), đổi tên là thành Thăng Long (có nghĩa là rồng bay lên)
Thời Lý, kinh thành Thăng Long đã dần dần trở thành đô thị phồn thịnh Kinh thành Thăng long được bao bọc bởi một vòng thành ngoài cùng gọi là La hay thành Đại La. Có thể nói vào thế kỉ XI, Thăng Long vừa là kinh đô của Đại Việt phồn thịnh, vừa là một thành thị có quy mô lớn trong khu vực trên thế giới lúc bấy giờ. Vòng thành được đắp từ năm 1010. Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, phía ngoài đào hào, mở bốn cửa về bốn bốn phía: đông, tây, nam, bắc. Từ thời Lý Thái Tổ, vòng thành này đã được gọi là Long thành hay Hoàng thành. Khu vực Hoàng thành chiếm vị trị rất quan trọng với toàn bộ kinh đô và cả nước. Có nhiều cung điện làm nơi ở, nơi làm việc của vua quan, quý tộc của triều đình. Các cung điện thời Lý đều được làm bằng gỗ, lợp ngói ống, có đầu bít ngói hình rồng, hình phượng, hình hoa sen, tạo thành một diềm mái mĩ lệ trước lầu rồng, gác phượng. Ngoài một số cung điện, còn có lầu gác hai- ba tầng, từ xa đã thấy cung điện vua ngự cao đến bốn tầng.
Bên trong Hoàng thành, có một khu vực được bảo vệ đặc biệt, gọi là Cấm thành. Đây là nơi dành cho vua, hoang hậu và các cung tần, mĩ nữ ở. Xung quanh có vườn hoa, cây trái và một số ao hồ, có cầu bắc qua làm nơi dạo chơi ngoạn cảnh.
Phía ngoài Hoàng thành, có khu dân cư với hệ thống chợ- bến, phường phố công thương nghiệp và những xóm trại nông nghiệp. Nhà Lý còn cho xây dựng nhiều công trình khác, có cả cung cho Hoàng thái tử ở ngoài Hoàng thành.
Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Vua là người đứng đầu nhà nước, nắm giữ mọi quyền hành. Vua ở ngôi theo chế độ cha truyền con nối. Các chức vụ quan trọng, nhà vua đều cử những người thân cận nắm giữ. Giứp vua lo việc nước có các đại thần, các quan văn võ. Dân ai có gì oan ức thì đánh chuông (đặt ở trước điện Long Trì) để vua xét xử. Ở các địa phương, nhà Lý chia cả nước thành 24 lộ, phủ, đặt các chức tri phủ, tri châu; giao cho con cháu nhà vua hoặc các đại thần cai quản. Dưới lộ, phủ là huyện, hương và xã. 2. Luật pháp và quân đội Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ hình thư, bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta. (nhưng hiện nay không còn nữa) Theo sử ghi, luật pháp thời Lý quy định chặt chẽ việc bảo vệ nhà vua và cung điện, xem trọng việc bảo vệ của công và tài sản của nhân dân, nghiêm cấm việc mổ trâu bò, bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Những người phạm tội bị xử phạt rất nghiêm khắc. Quân đội thời Lý gồm hai bộ phận: cấm quân và quân địa phương. cấm quân _Tuyển chọn những thanh niên khỏe mạnh trong cả nước. _Bảo vệ vua và kinh thành Quân địa phương _tuyển chọn trong số những thanh niên trai tráng ở các làng xã đến tuổi thành đinh (18 tuổi) _Canh phòng các lộ, phủ _ Hằng năm, chia thành phiên thay nhau đi luyện tập và về quê sản xuất, khi có chiến tranh sẽ tham gia chiến đấu.
Nhà Lý thi hành chính sách "ngụ binh ư nông" (gửi binh ở nhà nông), cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng và thanh thiên đăng kí vào sổ nhưng vẫn ở nhà sản xuất. Khih cần triều đình sẽ điều động Nhà Lý còn gả các công chúa và ban chức tước cho các tù trưởng dân tộc miền núi. Nếu người nào có ý định tách khỏi Đại Việt, nhà Lý kiên quyết trấn áp. Đối với nhà Tống, nhà Lý giữ quan hệ bình thường, tạo điều kiện cho nhân dân ở biên giới có thể qua lại buôn bán. Để ổn định biên giới phía nam, nhà Lý đã dẹp tan cuộc tấn công của Cham-pa do nhà Tống xíu giục. Sau đó, quan hệ Đại Việt- Cham-pa trở nên bình thường. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075- 1077)
I. Giai đoạn thứ nhất (1075)
1. Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta
Ở giữa thế kỉ XI, nhà Tống (Trung Quốc) gặp phải những khó khăn chồng chất. Trong nước, ngân khố cạn kiệt, tài chính nguy ngập, nội bộ mâu thuẫn. Nhân dân bị đói khổ, nhiều nơi nổi dậy chiến tranh. Vùng biên cương phía bắc của nhà Tống luôn bị hai nước Liêu- Hạ quấy nhiễu. Nhà Tống muốn dùng chiến tranh để giải quyết tình trạng khủng khoảng nói trên, nên tiến hành xâm lược Đại Việt. Tống Thần Tông trắng trợn nói: "Sau khi Giao Chỉ (Đại Việt) thua hãy đặt thành quận huyện mà cai trị và hãy sung công của cải." Và nếu thắng được Đại Việt thì "thế Tống sẽ tăng và hai nước Liêu- Hạ sẽ phải kiêng nể." Để đánh chiếm Đại Việt, nhà Tống xúi giục Cham-pa đánh xuống từ phía nam. Còn ở biên giới phía Bắc của Đại Việt, nhà Tống ngăn cản việc buôn bán, đi lại của nhân dân hai nước, dụ dỗ tù trưởng các dân tộc ít người. 2. Nhà Lý chủ động tấn công để phòng vệ Sớm phát hiện được mưu đồ của kẻ thù, nhà Lý đã chuẩn bị tiến hành các biện pháp chuẩn bị đối phó. Thái úy Lý Thường Kiệt được cử làm người chỉ huy, tổ chức cuộc kháng chiến. [i]Lý Thường Kiệt sinh năm 1019 tại phường Thái Hòa, Thăng Long (nay thuộc Hà Nội). Từ nhỏ, ông đã tỏ ra là người có chí hướng, ham học binh thư và luyện tập võ nghệ. Năm 23 tuổi, được tuyển vào trong triều giữ chức quan nhỏ. Là người có cốt cách và tài năng phi thường, trải qua mấy đời vua, ông được thăng dần nhiều chức quan trọng. Lý Thánh Tông phong ông làm thái úy
Lý Thường Kiệt cho quân đội luyện tập và canh phòng suốt ngày đêm. Các tù trưởng được phong chức tước cao, được lệnh mộ thêm binh đánh trả các cuộc quấy phá, làm thất bại âm mưu dụ dỗ của nhà Tống. Để ổn định địa phận phía nam, Lý Thánh Tông cùng Lý Thường Kiệt đem quân đánh bại ý đồ tiến công phối hợp tấn công của nhà Tống với Cham-pa.
Trước tình hình nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt thực hiện chủ trương độc đáo, sáng tạo "tiến công trước để tự vệ". Ông thường nói: "Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quânddasnh trước để chặn thế mạnh của giặc". Do đó, ông đã gấp rút chuẩn bị cho cuộc tấn công vào những nơi tập trung quân lương của nhà Tống gần biên giới Đại Việt. Châu Ung, Châu Khâm, Châu Liêm nằm gần biên giới phía bắc nước ta. Đây sẽ là ba căn cứ xuất phát, cũng là những địa điểm tập kết lợi hại của quân Tống. Lương thực và khí giới được tích trữ đầy đủ tại nơi này. Từ ba căn cứ nói trên, quân Tống tiến hành những trận đánh thăm dò Đại Việt.
Tháng 10/1075, Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân thủy- bộ chia làm hai đạo tấn công vào đất Tống. Quân bộ do các tù trưởng Thân Cảnh Phúc, Tông Đản chỉ huy dân binh miền núi đánh vào châu Ung (Quảng Tây). Lý Thường kiệt chỉ huy cánh quân đường thủy, đổ bộ vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông). Sau khi tiêu diệt các căn cứ tập kết quân, phá hủy các kho tàn của giặc, quân Lý Thường Kiệt tiến về bao vây thành Ung châu, tướng Tô Giám nhà Tống phải tự tử. Đạt được mục tiêu, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch ở trong nước. Trận tập kích này đã đánh một đồn phủ đầu, làm hoang mang quân Tống, đẩy chúng vào thế bị động __________________ | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:11 am |
| | | | | II. Giai đoạn thứ hai (1076- 1077)
1. Kháng chiến bùng nổ Sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt hạ lệnh cho các địa phương, ráo riết chuẩn bị bố phòng. Các tù trưởng dân tộc ít người ở gần biên giới Việt- Tống đã cho quân mai phục những vị trí chiến lược quan trọng. Lý Thường Kiệt bố trí một lực lượng thủy binh đóng ở Đông Kênh, do tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy, để chặn thủy binh địch. Bộ binh được bố trí suốt dọc theo chiến tuyến sông Như Nguyệt. Đội quân chủ lực này do chính Lý Thường Kiệt chỉ huy và đồn trú tại yên phụ (Yên Phong- Bắc Ninh) cách bến Như Nguyệt vài km
Thất bại nặng nề và vô cùng bất ngờ ở Ung châu làm cho nhà Tống vô cùng tức tối. Chúng liền tiến hành cuộc xâm lược Đại Việt. Cuối năm 1076, một đạo quân lớn gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, một vạn ngựa chiến cùng 20 vạn dân phu do các tứơng Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy, ồ ạt tiến vào nước ta. Một đạo quân khác, do Hòa Mâu dẫn đầu, theo đường biển vào tiếp ứng. Tháng 1/1077, đại quân Tống vượt cửa ải nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào nước ta. Quân đội nhà Lý đánh những trận nhỏ, nhằm cản bước tiến của chúng. Khi tiến đến bờ bắc sông Như Nguyệt, quân Tống lúng túng vì trước mặt là sông và bờ bên kia là cả một chiến lũy rất kiên cố. Bị phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, Quách Quỳ phải đóng quân bên bờ bắc sông Như Nguyệt, chờ thủy quân đến. Nhưng lúc đó, thủy quân của chúng bị quân Lý Kế Nguyên chặn đánh 10 trận tại vùng ven biển nên không thể tiến sâu vào hỗ trợ cho đồng bọn. 2. Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt Chờ mãi không thấy thủy quân đến, quân Tống nhiều lần tìm cách tấn công quân ta. Chúng bắc cầu phao, đóng bè lớn ào ạt qua sông đánh vào phòng tuyến của chúng ta. Quân nhà Lý đã kịp thời phản công mãnh liệt, mưu trí, đẩy lùi chúng về phía bờ bắc. Thất vọng, Quách Quỳ ra lệnh:" Ai bàn đánh sẽ bị chém". và chuyển sang củng cố, phòng vệ. Quân sĩ ngày một chán nản, mệt mỏi, chết dần chết mòn. Tương truyền, để động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, đêm đêm Lý Thường Kiệt cho người vào một ngôi đền bên bờ sông ngâm vang bài thơ thần bất hủ:
[i]"Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư".
Tạm dịch là:
"Sông núi nước Nam, vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời
Cuối mùa xuân 1077, Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công lớn vào trận tuyến của địch. Đang đêm, uân ta lặng lẽ vượt qua sông Như Nguyệt, bất ngờ đánh thẳng các doanh trại giặc. Quân Tống thua to, mười phần chết hết năm sáu. Chúng lâm vào tình thế hết sức khó khăn, tuyệt vọng. Giữa lúc ấy, Lý Thường kiệt chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp mềm dẻo, thương lượng, đề nghị giảng hòa. Quách Quỳ nhận lời ngay. Quân Tống vội vã rút về nước.
Trận chiến Như Nguyệt là trận quyết định quyết định số phận của quân tống xâm lược. Đây cũng là một trong những trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Người chỉ huy trận đánh- Lý Thường Kiệt quả là một tướng tài. Tên tuổi ông mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta. Đến đây, cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, vẻ vang. Quân Tống buộc phải từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt. Nền độc lập, tự chủ của Đại Việt được bảo vệ. Đời sống kinh tế- Văn hóa
I. Đời sống kinh tế
1. Sự chuyển biến của nền nông nghiệp Ruộng đất trong cả nước trên danh nghĩa đều thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà vua. Nhưng thực tế, phần lớn ruộng đất lại do nông dân canh tác. Hằng năm, dân làng chia nhau ruộng đất công để cày cấy và nộp thuế cho nhà vua. Các vua nhà Lý thường về các địa phương cày tịch điền. Năm 1038, mùa xuân, vua (Thái Tông) ngự ra Bố Hải Khẩu (thị xã Thái Bình) cày ruộng tịch điền, sai hữu ti dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế thần Nông, tế xong tự cầm cày. Các quan tả hữu có người can rằng: :Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế". Vua đáp: "Trẫm không tự mình cày thì lấy gì xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo."
Vua Lý còn lấy một số đất công làm nơi thờ phụng, tế lễ hoặc phong cấp cho con cháu, những người có công, làm các đền chùa. Nhà Lý cũng khuyến khích việc khai khẩn đất hoang, tiến hành đào kênh mương, khai ngòi, đồng thời cho đắp đê phòng lụt. Nhà Lý cũng ban hành luật lệnh cấm giết trâu bò để bảo vệ sức kéo cho nông nghiệp. Bấy giờ vua mới ra lệnh là kẻ nào ăn trộm trâu, giết trâu, phạt 80 lượng, nhà láng giềng không cáo giác cũng bị phạt 80 lượng. Theo sử biên niên của nước ta ghi lại thì nhiều năm mùa màng bội thu như năm 1016 (triều Lý Thái Tổ), năm 1030, 1044 (triều Lý Thái Tông), năm 1131 (triều Lý Thần Tông), năm 1139, 1140 (triều Lý Anh Tông) 2. Thủ công nghiệp và thương nghiệp Trong dân gian, nghề chăn tằm ươm tơ, dệt lụa, làm đồ gốm, xây dựng đền đài, cung điện, nhà cửa rất phát triển. Ngoài ra, nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc, nghề làm giấy, nghề in bản gỗ, đúc đồng, rèn sắt, nhuộm vải đều được mở rộng. Có những công trình do bàn tay người thợ thủ công Đại Việt tạo dựng nên rất nổi tiếng như chuông Quy Điền, tháp Bảo Thiên (Hà Nội), vạc Phổ Minh (Nam Định)...... Việc buôn bán trao đỏi trong nước và ngoài nước được mở mang hơn trước. Ở vùng hải đảo ở miền biên giới Lý- Tống, chính quyền hai bên cho lập nhiều khu chợ tập trung để nhân dân đến trao đổi. Thời đó, Vân Đồn là nơi buôn bán tấp nập, sầm uất, có vị trí tự nhiên rất thuận lợi cho thuyền bè qua lại và trú đỗ, lại nằm trên trục hàng hải từ Trung Quốc xuống các nước từ Đông Nam Á | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:11 am |
| | | | | II. Sinh hoạt xã hội và văn hóa.
1. Những thay đổi về mặt xã hội Thời Lý, vua quan là bộ phận chính trong giai cấp thống trị. Một số hoàng tử, công chúa, quan lại được nhà nước phong ruộng đất đã trở thành địa chủ. Một số ít dân thường, do có nhiều ruộng, cũng trở thành địa chủ có thế lực ở địa phương. Nông dân chiếm đa số trong dân cư. Họ là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Các đinh nam được chia ruộng theo tục lệ của làng xã và phải làm nghĩa vụ cho nhà nước.Những nông dân nghèo phải cày ruộng, nộp tô cho địa chủ, có người phải rời bỏ quê hương, khai hoang, lập nghiệp ở nơi khác. Ngoài ra, trng xxax hội còn có người làm nghề thủ công, buôn bán. Họ sống rải rác ở các làng, rèn công cụ, sản xuất các đồ dùng cần thiết hằng ngày và trao đổi cho nhau. Họ phải nộp thuế và làm nghĩa vụ với nhà vua. Nô tì vốn là tù binh hoặc bị tội nặng, nợ nầng hoặc tự bán thân; họ phải phục vụ trong cung điện hoặc các nhà quan. 2. Giáo dục và văn hóa Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng ở Thăng Long để thờ Khổng Tử. Đây cũng là nơi dạy học cho các con vua. Năm 1075, khoa thi đầu tiên được mở để tuyển chọn quan lại. Năm 1076, mở Quốc Tử Giám cho con em quý tộc đến học (có thể xem đây là trường đại học đầu tiên của quốc gia Đại Việt. Sau đó, nhà Lý mở rộng cho con em quan lại và những người giỏi trong nước vào đây học tập, tổ chức thêm một số kì thi. Nhà Lý đã quan tâm đến giáo dục, khoa cử song chế độ thi cử chưa có nền nếp, quy củ, khi nào nhà nước có nhu cầu mới mở khoa thi. Văn học chữ Hán bước đầu phát triển.
Hầu hết các vua nhà Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông đều sùng bái đạo Phật, sai dựng chùa tháp, tô tượng, đúc chuông, dịch kinh Phật, soạn sách Phật.
Từ thời Lý, nhân dân thích ca hát, nhảy múa. Hát chèo, múa rối nước đều phát triển. Dàn nhạc có trống, đàn, sáo, nhị. Nhiều trò chơi nhân gian như đá cầu, vật, đua thuyền rất được ham chuộng. Mùa xuân, khắp nơi đều mở hội. Kiến trúc và điêu khắc rất phát triển. Các công trình có quy mô tương đối lớn và mang tính cách độc đáo. Trong Hoàng thành có những tòa nhà cao bốn tầng. Tháp Bảo Thiên ở Thăng Long gồm 12 tầng. Chùa Một Cột đưowjc xây dựng trên một cột đá lớn, dựng giữa hồ, tượng trưng cho một bông sen nở trên mặt nước. Trong thời kì này, một số công trình nghệ thuật khác có giá trị cũng được xây dựng. Tháp Chương Sơn (Nam Định), chuông chùa Trùng Quang (Bắc Ninh) nặng gần 3 tấn..... Trình điêu khắc tinh vi, thanh thoát được thể hiện trên các tượng Phật, ở các hình trang trí rồng, các bệ đá hình hoa sen. Rồng mình trơn, toàn thân uống khúc, uyển chuyển như một ngọn lửa là hình tượng nghệ thuật độc đáo, phổ biến ở thời Lý Phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt của nhân dân ta thời Lý đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hóa riêng biệt dân tộc- văn hóa Thăng Long. NƯỚC ĐẠI VIỆT THƠI TRẦN
Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII I. Nhà Trần thành lập
1. Nhà Lý sụp đổ Từ cuối thế kỉ XI, nhà Lý ngay càng suy yếu. Chính quyền không còn chăm lo đến đời sống của nhân dân như trước, hầu hết quan lại lao vào ăn chơi, sa đọa.
Bấy giời nhà vua vẫn cứ tiến hành việc thổ mộc không ngừng, nghe nói ngoài kinh thành có giặc cướp, cũng giả vờ làm ngơ để bưng bích đi, chỉ ham thích của cải. Các bầy tôi (quan lại) đều bắt chước, tranh nhau bán quan buôn ngục, ngoài ra không còn nghĩ đến việc gì. Lụt lội, hạn hán, mất mùa liên tiếp xảy ra. Nhiều dân nghèo phải bán vợ, con làm nô tì cho các nhà giàu, một số khác bỏ vào chùa kiếm sống. Dân chúng rất cực khổ.
Chính sự ngày một đổ nát, đói kém xảy ra luôn luôn. Nhân dân cúng quẫn, khốn khổ, giặc cướp nổi lên ở nhiều nơi. Ở Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình... dân nghèo nổi dậy đấu tranh. Trong tình hình đó, một số thế lực phong kiến ở các địa phương lại đánh giết lẫn nhau, quấy phá nhân dân và chống lại triều đình. Nhà Lý phải dựa vào thế lực họ Trần để chống lại các lực lượng nổi loạn nên đã tạo điều kiện và thời cơ cho họ Trần buộc Chiêu Hoàng (vua cuối) của nhà Lý phải nhường ngôi cho Trần Cảnh vào tháng 12, năm Ất Dậu, dầu năm 1226. 2. Nhà Trần củng cố chế độ phong kiến tập quyền Bộ máy quan lại thời Trần cũng như thời Lý, được tổ chức theo chế độ quân chủ trung ương tập quyền, gồm ba cấp: triều đình, các đơn vị hành chính trung gian từ lộ đến phủ, huyện, châu và cấp hành chính cơ sở là xã. Ở triều đình, đứng đầu là vua, thời Trần thực hiện chế độ Thái Thượng Hòang. Các vua thường nhường ngôi sớm cho con và tự xưng là Thái Thượng Hòang, cùng với vua (con) quản lí đất nước. Các chức đại thần văn, võ phần lớn do người họ Trần nắm giữ. Hệ thống quan lại bên dưới vẫn như thời Lý, nhưng được tổ chức có quy củ và đầy đủ hơn. Nhà Trần đặt thêm một số cơ quan gọi là quốc sử viện (đảm nhiệm việc viết sử), thái y viện (coi việc chữa bệnh trong cung vua), Tôn nhân phủ (nắm sự vụ của họ hàng tôn thất) và một số chức quan như Hà đê sứ, Khuyến nông sứ, Đồn điền sứ..... Nhà Trần còn quy định cụ thể thời hạn để xem xét việc thưởng, phạt quan lại. Theo thể lệ nhà Trần, cứ 15 năm không có lỗi nặng thì thăng một bậc chức vụ. Việc thăng thưởng, bổ sung được quy định rõ ràng. Các quý tộc họ Trần được phong vương hầu, ban thái ấp. Quan lại được cấp bổng lộc. Cả nước được chia lại thành 12 lộ. Đứng đầu lộ có các chức chánh, phó An phủ sứ. Dưới lộ là phủ, do chức tri phủ cai quản; châu, huyện do các chức tri châu, tri huyện trông coi. Dưới cùng là xã, do xã quan đứng đầu. 3. Pháp luật thời Trần Nhà nước chú trọng sửa sang luật pháp, ban hành bộ luật mới gọi là Quốc triều hình luật. Hình luật thời Trần cũng giống như thời Lý, nhưng được bổ sung thêm. Pháp luật xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản quy định cụ thể việc mua bán ruộng đất. Cơ quan pháp luật thời Trần được tăng cường và hoàn thiện hơn. Nhà Trần đặt cơ quan thẩm hình viện để xét xử việc kiện cáo. Vua Trần vẫn để cuông lớn ở thềm điện Long Trì cho dân đến kêu oan khi cần. Sự cách biệt giữa vua quan và dân chúng chưa thực sự sâu sắc. II. Nhà Trần xây dựng quân đội và phát triển kinh tế 1. Nhà Trần xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng Nhà Trần thay nhà Lý cai quản đất nước: một mặt nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội, xây dựng chính quyền mới; mặt khác, tổ chức lại quân đội, củng cố Quốc phòng. Quân đội nhà Trần gồm có cấm quân và quân ở các lộ. Cấm quân là đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình, nhà vua. Ở các làng xã, có hương binh. Khi có chiến tranh, còn có quân đội của các vương hầu. Quân đội nhà Trần được tuyển dụng theo chính sách ngụ binh ư nông và theo chủ trương "quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông", xây dựng tinh thần đoàn kết trong quân đội. Quân đội nhà Trần được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ thường xuyên. Nhà Trần còn cử các tướng giỏi cầm quân đóng giữa các vùng hiểm yếu, nhất là vùng biên giới phía bắc. Vua Trần thường đi tuần tra việc phòng bị ở các nơi này. 2. Phục hồi và phát triển kinh tế Để ổn định chính trị, xã hội, củng cố quốc phòng, nhà Trần đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phục hồi và phát triển kinh tế. Về nông nghiệp, nhà Trần đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, mở rộng diện tích sản xuất, đắp đê phòng lụt, đào sông, nạo vét kênh. Nhà vua hạ lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến cửa biển để đề phòng nước sông lên cao, gọi là đê Đỉnh Nhĩ; đặt chức Hà đê sứ để trông coi, đốc thúc việc đắp đê. Chỗ nào đắp vào ruộng đất của dân sẽ tính trả tiền lại.
Nông dân nhà nước quan tâm, cố gắng tích cực cày cấy, nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển. Về thủ công nghiệp, các xưởng thủ công nhà nước chuyên sản xuất đồ gốm, dệt và chế tạo vũ khí. Thủ công nghiệp trong nhân dân có nhiều ngành, nghề như đúc đồng, làm giấy, khắc ván in..... Ở các làng xã, chợ mọc lên ngày càng nhiều. Ở kinh thành Thăng Long, bên cạnh Hoàng thành đã có 61 phường. Các cửa biển Hội Thống (Hà Tĩnh), Hội Triều (Thanh Hóa), Vân Đồn (Quảng Ninh)... là nơi buôn bán tấp nập với thương nhân nước ngòai. Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên( Thế kỉ XIII)
I - Cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ (1258)
1. Âm mưu xâm lược Đại Việt của Mông Cổ
Đầu thế kỉ XIII, nhà nước phong kiến Mông Cổ được thành lập. Với một lực lượng quân đội mạnh và hiếu chiến, vua Mông Cổ liên tiếp xâm lược và thốnng trị nhiều nước ở Châu Á , Châu Âu. Quân Mông Cổ đi đến đâu, cũng làm nhà của đổ nát, thành trì tan hoang, nhân dân bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ Năm 1257, vua Mông Cổ quyết định mở cuộc tấn công lớn vào nước Nam Tống (ở phía nam Trung Quốc), nhằm xâm chiếm toàn bộ Trung Quốc. Để đạt được tham vọng đó, vua Mông Cổ sai tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy hơn 3 vạn quân xam lược Đại Việt., rồi từ Đại Việt để đánh thẳng vào phía nam Trung Quốc để phối hợp với các cánh quân từ phía bắc xuống. Đó là việc thực hiện kế hoạch "gọng kìm" để tiêu diệt nam Tống và xâm lược Đại Việt......
Trước khi kéo quân vào xâm lược Đại Việt, tướng Mông Cổ cho sứ giả đưa thư đe dọa và dụ hàng vua Trần. Ba lần sứ giả đến Thăng Long đều bị vua Trần bắt giam vào ngục.
2. Nhà Trần chuẩn bị và tiến hành kháng chiến chống quân Mông Cổ
Cuối năm 1257, khi được tin quân Mông Cổ chuẩn bị xâm lược, nhà Trần đã mang lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí, các đội dân binh được thành lập, ngày đêm luyện tập võ nghệ, sẵn sàng đánh giặc
Tháng 1/1258, 3 vạn quân Mông Cổ do tướng Ngợp Lương Hợp Thai chỉ huy tiến vào xâm lược nước ta. Quân giặc theo đường Sông Thao tiến xuống Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ) rồi tiến đến vùng Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc) thì bị chặn lại ở phòng tuyến do vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy. Tại đây, một trận đánh quyể liệt đã diễn ra.
Do thế giặc mạnh, vua Trần cho lui quân để bảo toàn lực lượng, triwwfu đình tạm rời kinh thành Thăng Long, xuôi về vùng Thiên Mạc (Duy Tiên, Hà Nam)
Nhân dân Thăng Long, theo lênhk triều đình, nhanh chóng thực hiện chủ trương "vườn không nhà trống" để đánh giặc, tạm rút khỏi kinh thành. Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long trống vắng, không một bóng người, lương thực
Quân Mông Cổ điên cuồng tàn phá kinh thành, lùng bắt, giết hại những người còn sót lại.
Trước thế giặc mạnh, tàn bạo, vua Trần lo lắng hỏi ý kiến cuat Thái Sư Trần Thủ Độ. Ông trả lời : Đầu thần chưa rơi xuống đất , xin bệ hạ đừng lo !" (Đại Việt sử kí toàn thư)
Đóng giữ kinh thành Thăng Long chưa đầy một tháng , quân Mông Cổ lâm vào tình thế khó khăn vì thiếu lương thực trầm trọng, phải cho quân lính đi cướp thóc gạo, hoa màu của nhân dân, những nhân dân các làng xã đã chống trả quyết liệt nên lực lượng của chúng bị tiêu hao dần.
Nắm được thời cơ, quân đội nhà Trần mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng - phố Hàng Than - Hà Nội ngày nay)
Ngày 29/1/1258, vua Mông Cổ thua trận phải rời bỏ Thăng Long. Trên đường rút chạy, chúng bị quân đội nhà Trần truy kích. Đến vùng Quy Hóa (Yên Bái , Lao Cai), lại bị quân của Hà Bổng chặn đánh, quân giặc hốt hỏang, tháo chạy về nước. Cuộc kháng chiến chỉ diễn ra chưa đầy một tháng đã kết thúc thắng lợi. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:16 am |
| | | | | II - Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên (1285)
1. Âm mưu xâm lược Cham Pa và Đại Việt của nhà Nguyễn
Năm 1279, nước Nam Tống bị tiêu diệt, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông Cổ thống trị. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược Cham pa và Đại Việt để làm cầu nối xâm lược và thôn tính các nước ở phía nam Trung Quốc
Hốt Tất Liệt cho quân đánh Cham Pa (Chiêm Thành) trước để làm bàn đạp tấn công vào phía nam Đại Việt, phối hợp với cánh quân của Thoát Hoan từ Trung Quốc đánh vào phía bắc.
Năm 1283, hơn 10 vạn quân Nguyên do tướng Toa Đô chỉ huy xâm lược Cham pa, chiếm được kinh thành. Quân dân cham pa đã chiến đấu hết sức anh dũng; cuối cùng quân Nguyên phải rút một bộ phận về cố thủ ở phía bắc để chờ phối hợp đánh Đại Việt.
Kế hoạch của nhà Nguyên định dùng cham pa làm bàn đạp tấn công nước ta bước đầu tan vỡ
2. Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến
Sau khi biết tin quân Nguyên mượn đường đánh cham pa nhưng chỉ là tìm cớ xâm lược Đại Việt, vua Trần triệu tập hội nghị các chương hàu, quan lại bến Bình Than để bàn kế đánh giặc
Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) được vua Trần iao trọng trách Quốc công tiết chế - chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông soạn Hịch tướng sĩ để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội
Đầu năm 1285, vua Trần mở Hội Nghị Diêm Hồng, nơi các bậc phụ lão có uy tín trong nước về Thăng Long họp để bàn kế đánh giặc
Nhà Trần tổ chức cuộc tập trận lớn và cuộc duyệt binh ở Đông Bộ Đầu rồi chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu
Cả nước được lệnh chuẩn bị sẵn sàng đánh giặc. Quân sĩ đều thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát" (giết giặc Mông Cổ)
3. Diễn biến và kết quả cuộc kháng chiến
Cuối tháng 1/1285, khoảng 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy tràn vào xâm lược Đại Việt. Sau một số trận chặn giặc chiến đấu ở vùng biên giới, Trần Quốc Tuấn cho lui quân về Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương)
Quân Thoát Hoan tập trung một lực lượng lớn tấn công vào Vạn Kiếp. Trước thế giặc mạnh, quân Trần lui về Thăng Long, sau đó rút về Thiên Đường (Nam Định). Nhân dân ơ Thăng Long thực hiện lệnh vườn không nhà trống của triều đình.
Quân Thoát Hoan kéo vào chiếm Thăng Long trống vắng. Không dám đóng quân trong thành, chúng phải dựng doanh trại ở phía bắc sông Nhị (sông Hồng)
Toa Đô được lệnh từ Cham pa đánh ra Nghệ An - Thanh Hóa. Thấy thế giặc mạnh, một số quý tộc nhà Trần đầu hàng giặc.. Cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn.
Cùng lúc đó, Thoát Hoan tự mình chỉ huy một lực lượng quân mạnh, mở cuộc tấn công lớn đánh xuống phía nam tạo thành thế gọng kìm., hòng tiêu diệt quân chủi lực của ta và bắt sống toàn bộ đầu não của cuộc kháng chiến. Trước tình thế nguy cấp, Trần Quốc Tuấn phải ra lệnh rút lui để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuọc phản công quân địch.
Bị thất bại trong âm mưu bắt sống vua TRần và tiêu diệt quân chủ lực của ta, Thoát Hoan rút quân về Thăng Long chờ tiếp viện. Quân Nguyên lâm vào tình thế bị động lại thiếu lương thực trầm trọng
Tháng 5/1285, lợi dụng thời cơ, quân Trần tổ chức phản công, đánh bại quân giặc ở nhiều nơi như Tây Kết, Cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây) và tiến vào giải phóng Thăng Long.
Quân giặc hốt hoảng tháo chạy, bị quân Trần phục kích chặn đánh, nhiều tên bị giết. Thoát Hoan vất vả lắm mới chạy thoát về nước . (Chui vào ống đồng, bắt quân lính khiêng chạy)
Vua Trần còn đem quân chặn đánh Toa Đô ở Tây Kết, hàng vạn quân giặc bị tiêu diệt. Tướng Toa Đô bị chém đầu
Sau gần hai tháng phản công (tháng 5 và tháng 6), quân nhân nhà Trần đã đánh tan tành hơn 50 vạn quân Nguyên , một đạo quân hùng mạnh bậc nhất thế giới hồi đó. Đất nước sạch bóng quân xâm lược, cả dân tộc ca khúc khải hoàn.
Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù Thái Bình nên gắng sức Non nước ấy ngàn thu | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:16 am |
| | | | | III - Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên (1287 - 1288)
1. Nhà Nguyên xâm lược Đại Việt
Hai lần xâm lược Đại Việt đều thất bại, vua Nguyên càng tức giận nên quyết tâm đánh Đại Việt lần thứ ba để trả thù. Hốt Tất Liệt đình chỉ cuộc xâm lược Nhật BẢn, tập trung lực lượng tiến công Đại Việt.
Đứng trước nguy cơ bị xâm lược, vua TRần khẩn trương chuẩn bị đánh giặc
Cuối tháng 12/1287, quân Nguyên ồ ạt tiến vào nước ta. Cánh quân bộ do Thoát Hoan chỉ huy vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn - Bắc Giang
Ngày đầu năm, cánh quân do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy kéo chiếm đóng Vạn Kiếp và ra sức xây dựng nơi đây thành căn cứ vững chắc để định đánh lâu dài với ta
Cùng lúc đó, đoàn thuyền chiến do tướng Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường biển tiến vào nước ta, rồi ngược lên sông Bạch Đằng kéo đến Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan
2. Trận Vân Đồn tiêu diệt đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ
O Mã Nhi cho được giao nhiệm vụ bảo vệ đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ, nhưng cho rằng quân ta không thể ngăn cản được đàon thuyền lương này nên đã tiến về hội quân ở Vạn Kiếp
Trần Khánh Dư dự đoan khi đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi đi qua, có thể đánh được đoàn thuyền lương nên đã bố trí một trận mai phục. Đúng như dự đóan, mấy ngày sau, khi đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ nặng nề, chậm chạp tiến qua Vân Đồn (Văn Hải, Quảng Ninh), liền bị quân của Trần Khánh Dư từ nhiều phía đổ ra đánh dữ dội. Phần lớn thuyền lương của địch bị đắm, số còn lại bị chiếm.
3. Chiến Thắng Bạch Đằng
Cuối tháng 1/1288, Thoát Hoan chia quân làm ba đạo tiến vào chiếm đóng Thăng Long trống vắng vì nhân dân đã thực hiện kế hoạch vườn không nhà trống của triều đình
Quân Nguyên không tiêu diệt được lực lượng kháng chiến của nhà Trần, trong khi đó nhiều nơi xung yếu bị quân dân ta tấn công chiếm lại. Quân giặc ra sức càn quét, cướp lương thực những đều bị dân ta đuổi đánh, đẩy chúng vào thế bị động, cạn kiệt lương thực. Thoát Hoan đóng quân ở Thăng Long có nguy cơ bị cô lập, tinh thần quân lính hoang mang, tuyệt vọng. Trước tình thế nguy khốn, Thoát Hoan quyết định rút quân lên Vạn Kiếp và từ đây rút về nước theo hai đường thủy bộ.
Nhận thấy thời cơ tiêu diệt quân Nguyên, giải phóng đất nước đã tới. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn quyết định mở cuộc phản công và bố trí trận mai phục ở sông Bạch Đằng
Đầu tháng 4/1288, đoàn thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy có kị binh hộ tống rút về theo đường thủy trên sông Bạch Đằng. Khi thuyền chiến của Ô Mã Nhi tiến gần đến trận địa bãi cọc, một số thuyền nhẹ của quân Trần ra khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy, quân giặc ra sức đuổi theo, lọt vào trận địa mai phục, đúng lúc nước thủy triều rút nhanh. Từ hai bờ, hàng nghìn chiến thuyền của quân Trần đổ ra đánh, phá vỡ đội hình quân giặc. Bị đánh bất ngờ và quyết liệt,. quân giặc hoảng hốt, tranh nhau tháo chạy ra biển, thuyền giặc xô vào bãi cọc đang nhô lên, thuyền bị đắm, vỡ. Giữa lúc đó, hàng loạt bè lửa xuôi nhanh theo nước triều đang xuống, lao vào thuyền giặc. Những tên sống sót nhảy lên bờ biển bị quân bộ nhà Trần chờ sẵn để tiêu diệt. Toàn bộ cánh thủy binh giặc bị tiêu diệt, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Cánh quân bộ , do Thoát Hoan chỉ huy, từ Vạn Kiếp theo hướng Lạng Sơn rút chạy về Quảng Tây (Trung Quốc). Trên đường tháo lui, chúng bị quân nhân ta tập kích liên túc. Cuộc kháng chiến lần thứ ba chông suqaan xâm lược Nguyên đã kết thúc thắng lợi, vẻ vang | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:17 am |
| | | | | Sự phát triển kinh tế và Văn Hóa thời Trần
I - Sự phát triển kinh tế
1. Tình hình kinh tế sau chiến tranh
Sau chiến tranh, nhà Trần thực hiện nhiều chính sách khuyến khích sản xuất, mở rộng diện tích trồng trọt. Nhờ vậy, mặc dù bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền nông nghiệp vẫn được hpucj hồi và nhanh chóng phát triển. Công cuộc khai khẩn đất hoang, thành lập làng, xã trong nhân dân được mở rộng, đê đều được củng cố. Các vương hầu, quý tộc nhà Trần vẫn tiếp tục chiêu tập dân nghèo khai hoang, lập điền trang.
Thời Trần, ruộng đất công làng xã chiếm phần lớn diện tích ruộng đất trong nước và là nguồn thu nhập chính của nhà nước. Các làng, xã chia ruộng cho nông dân cày cấy và thu thuế. Ngoài ra còn có ruộng đất của quý tộc, vương hầu (gọi là điền trang). Nhà Trần còn ban thái ấp cho quý tộc, vương hầu
Ruộng đất tư hữu của nhà Trần ngày càng nhiều
Thủ công nghiệp rất phát triển, Thủ công nghiệp do nhà nước trực tiếp quản lí được mở rộng, gồm có nhiều ngành nghề khác nhau như nghề làm đồ gốm tráng men, nghề dệt vải, lạu, chế tạo vũ khí, đóng thuyền đi biển...
Thu công nghiệp rất phổ biến trong nhân dân và phát triển, nổi bật là nghề làm đồ gốm, rèn sắt, nghề đúc đồng, làm giấy và khắc bản in, nghề mộc và xây dựng, khai hoang...
Một số thợ thủ công cùng nghề như làm đồ gốm, dệt vải lụa, nhuộm, làm giấy... tụ họp lại, lập thành làng nghề. Một số người tới Thăng Long lập ra các phường nghề. Các mặt hàng thủ công ngày càng tốt, đẹp hơn do trình độ kĩ thuật được nâng cao.
Buôn bán tấp nập, chợ búa mọc lên ở nhiều nơi, làm xuất hiện một số thương nhân, thường tập trung ở các đô thị
Thăng Long là trung tâm kinh tế khá sầm uất của cả nước, có nhiều phường thủ công, nhiều chợ lớn thu hút người buôn bán các nơi.
Việc trao đổi, buôn bán với thương nhân nước ngoài được đẩy mạnh qua cảng Vân Đồn
2. Tình hình xã hội sau chiến tranh
Từ sau chiến tranh chống Mông - Nguyên, xã hội ngày càng phân hóa. Tầng lớp vương hầu, quý tộc ngày càng có nhiều ruộng đất (điền trang thái ấp). Đó là tầng lớp có nhiều đặc quyền, đặc lợi, nắm giữ các chức vụ chủ yếu trong bộ máy chính quyền ở triều đình và các địa phương.
Tầng lớp thứ hai là địa chủ, là những người giàu có trong xã hội, có nhiều ruộng đất tư cho nong dân cày cấy để thu tô nhưng không thuộc tầng lớp quý tộc
Nông dân cày ruộng công của nhà nước ở các làng xã là tầng lớp bị trị, đông đảo nhất trong xã hội. aTuwf thế kỉ XIV, do nhiều năm bị mất mùa , đói kém, nông dân phải bán ruộng đất, bởi vậy tầng lớp nông dân tá điền lĩnh canh ruộng đất và nộp tô cho địa chủ đông hơn trước.
Tầng lớp thợ thủ công, thương nhân chiếm một tỉ lệ nhỏ trong cư dân, nhưng cũng ngày một đông hơn do sự phát triển của các nghề hủ công và việc buôn bán được đẩy mạnh.
Tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội là nông nô, nô tì. Họ bị lệ thuộc và bị quý tộc bốc lột nặng nề hơn nông dân tá điền. Nhiều quý tộc có đến hàng trăm nông nô, nô tì. Con cái của nô tì cũng là nô tì của chủ. Nô tì được đưa vào sản xuất thì được chuyển thành nông nô. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:17 am |
| | | | | II - Sự phát triển Văn Hóa
1. Đời sống văn hóa
Ở thời Trần, những tín ngưỡng cổ truyền vẫn hpoor biến trong nhân dân và có phần phát triển hơn như tục thờ tổ tiên , thờ các anh hùng dân tộc , những người có công với làng, nước ....
Đạo phật phát triển, tuy nhiên không bằng thời Lý, trong nước có nhiều người đi tu, kể cả những người thuộc giai cấp thống trị. Chùa chiền mọc lên ở khắp nơi
Thời Trần, nho giáo ngày càng phát triển do nhu cầu xây dựng bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị. Các nhà nho được bổ nhiệm giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Địa vị của nho giáo ngày càng được nâng cao.
Nhân dân ta thời Trần rất thích các hình thức sinh hoạt văn hóa như ca hát, nhảy múa, chèo tuồng, múa rối, đấu vật, cướp cầu, đau thuyền ... Bởi vậy các hoạt động văn hóa trên rất phổ biến và phát triển
Tập quán sống giản dị như đi chân đất, áo quần đơn giản rất phổ biến, nhưng bên trong sự giản dị đó là một inh thần thượng võ, yêu quê hươn, đất nước thiết tha và trọng nhân nghĩa
2. Văn học
Nền văn học (bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm) vốn rất phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, chứa đựng sâu sắc lòng yêu nước, tự hào dân tộc được phát triển mạnh ở thời Trần, đã làm rạng rỡ cho văn hóa Việt Nam
3. Giáo dục và khoa học - kĩ thuật
Thời Trần, Quốc Tử Giám mở rộng việc đào tạo con em quý tộc, quan lại. Các lộ, phủ quanh kinh thành đêu có trường công. Trong nhân dân, ở các làng xã có trường tư. Các kì thi được tổ chức ngày càng nhiều. Chu Văn An là một thầy giáo tiêu biểu thời Trần
Cơ quan chuyên viết sử ra đời (Quốc Sử Viện) do Lê Văn Hưu đứng đầu. Năm 1272, ông biên soạn xong bộ Đại Việt sử kkis gồm 30 quyển. Đây là bộ chính sử đầu tiên có giá trị ở nước ta.
Về quân sự, tác phẩm nổi tiếng binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo đánh dấu bước phát triển về lí luận quân sự của Đại Việt
4. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc
Nhiều công trình kiến trúc mới , có giá trị ra đời như Tháp Phố Minh (Nam Định) , thành Tây Đô (Thanh Hoa... một số công trình được tu sửa lại có quy mô hơn như cung điện và Hoàng thành ở Thăng Long, cung Thái Thượng Hoàng ở Tức Mạc (Nam Định), tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc)
Ở các lăng mộ vua và quý tộc thời Trần có nhiều tượng hổm sư tử, trâu, chó và các quan hầu bằng đá. Hình rồng khắc trên đá trâu chuốt, có sừng uy nghiêm | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:18 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:18 am |
| | | | | II - Nhà Hồ và cải cách của Hồ Quý Ly
1. Nhà Hồ thành lập
Cuối thế kỉ XIV, nhà Trần suy yếu
Năm 1400, nhà Hồ thành lập
2. Những biện pháp cải cách của Hồ Quý Ly
Chính trị : cải tổ hàng ngũ võ quan, thay thế quý tộc Trần
Xã hội : thực hiện chính sách hạn nô
Kinh tế : phát hành tiền giấy, ban hành chính sách hạn điền, quy định lại thuế đinh, thuế ruộng
Văn hóa - giáo dục : dịch sách chữ Hán sang chữ Nôm
Sửa đổi quy chế thi cử học tập
Quốc phòng : làm tăng dân số, chế tạo súng mới, phòng thủ nơi hiểm yếu , xây thành kiên cố
Tác dụng và những cải các của Hồ Quý Ly
+ Tác dụng
Đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hỏang
Góp phần hạn chế tập trung ruộng đất quý tộc, địa chủ . Làm suy yếu thế lực nhà Trần
Tăng nguồn thu nhập và quyền lực của nhà nước
+ Hạn chế :
Chưa triệt để
Chưa phù hợp với tình hình thực tế
Chưa được lòng dân | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:18 am |
| | | | | Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Thời kì ở miền Tây Thanh Hóa
1. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa
+ Tiểu sử
Lê Lợi : (1385 - 1433) là một hào trưởng có uy tín lớn ở vùng Lam Sơn (Thanh Hóa). Trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than, ông đã dốc hết tài sản để chiêu tập nghĩ sĩ, bí mật liên lạc với cấc hào kiệt, xây dựng lực lượng và chọn Lam Sơn làm căn cứ cho cuộc khởi nghĩa. Lam Sơn nằm bên tả ngạn sông Chu, nối liền giữa đồng bằng với miền núi và có địa thế hiểm trở. Đây cũng là nơi giao tiếp với các dân tộc Việt, Mương, Thái
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là con của Nguyễn Phi Khanh. Cả hai cha con đều đỗ đại khoa và làm quan thời Hồ. Ông học rộng, có tài cao, có lòng yêu nước, thương dân hết mực. Quân Minh tìm đủ mọi cách để dụ dỗ ông nhưng đều thất bại. Từ thành Đông Quan, ông bí mật trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi nghĩa và dâng bản Bình Ngô sách (Kế sách đánh quân Ngô)
+ Chuẩn bị khởi nghĩa :
Chiêu mộ nghĩa sĩ
Liên lạc với các hào kiệt
Chọn Lam Sơn làm căn cứ
18 người : Lê Lợi , Lê Lai, Nguyễn Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Vương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn TRãi, Nguyễn Lý ....
Năm 1416 , mở hội thề lũng nhai
Tháng 2/1416, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tự xưng Bình Định Vương
2. Những năm đầu hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn
Những ngày đầu , lực lượng nghĩa quân còn yếu
Giặc nhiều lần bao vây , tấn cong Lam Sơn
Kết quả : Nghĩa quân rút lên núi Chí Linh
Diễn biến :
+ Năm 1418 : Lê Lai hy sinh cứu chúa
+ Năm 1421 : giết voi, ngựa để nuôi quân
+ Năm 1423 : Lê Lợi tạm hòa với giặc, nghĩa quân trở về căn cứ Lam Sơn
+ Năm 1424 : Giặc trở mặt tấn công Lam Sơn
II - Giải phóng Nghệ An , Tân Bình , Thuận Hóa và tiến quân ra Bắc
1. Giải phóng Nghệ An
+ Chiến lược Nguyễn Chích :
_ Chuyển quân ra Nghệ An , từ đó đánh Đống Đa
+ Thực hiện
10/1424 , nghĩa quân tập kích đồn Đa Căng, hạ thành Trà Lân, đánh bại giặc ở Khả Lưu, Hồ Ải
+ Kết quả : Giải phóng diễm Châu, Thanh Hóa
2. Giải hpongs Tân bình - Thuận Hóa
8/1420, tướng Trần Nguyên Hãm, Lê Ngân tấn công và tiêu diệt giặc ở Tân Bình , Thuận Hóa
+ Ý nghĩa : ta thoát thế bị bao vây, mở rộng địa bàn hoạt động từ Thanh Hóa, Đèo Hải Vân. Giặc rơi vào thế bị động và bị cô lập
9/1426, nghĩa quân chia làm 3 đạo tiến ra bắc
3. Tiến ra bắc mở rộng địa bàn hoạt động
Cuối năm 1426
Nhân dân ủng hộ nhiều mặt
Ta giành nhiều trận chiến thắng
Giặc bị động, cố thủ ở Đông Quan | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:19 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:19 am |
| | | | | Nước Đại Việt thời Lê sơ
I - Tình hình chính trị , quân đội
1. Tổ chức bộ máy chính quyền
Nhận xét : Tổ chức chặt chẽ
Bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền do Vua trực tiếp cai quản
2. Tổ chức quân đội
Thực hiện chính sách ngụ binh ư nông
Quân đội gồm : 2 bộ phận
+ Quân triều đình
+ Quân địa phương
Kiên quyết bảo vệ lãnh thổ
3. Luật pháp
Lê Thánh Tông ban hành luật hồng đức
Nội dung : Bảo vệ quyền lợi của vua, hoàng tộc ; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp thống trị ; địa chủ phong kiến. Đặc biệt, bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia , khuyến khích phát triển kinh tế , gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc , bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ
II - Tình hình kinh tế - Xã hội
1. Kinh tế
Nông nghiệp
+ Giải quyết ruộng đất
+ Thực hiện phép quân điền
+ Khuyến khích bảo vệ sản xuất
Thủ công nghiệp
+ Phát triển nhiều ngành nghề thủ công ở làng xã
+ Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp ra đời ở Thăng Long
Thương nghiệp
+ Trong nước : chợ phát triển
+ Ngoài nước : hoạt động vẫn duy trì
+ Chủ yếu buôn bán ở cửa khẩu
2. Xã hội
Giai cấp
+ Địa chủ : Vua, quan lại, quý tộc
+ Nông dân : đông đảo
Tầng lớp
+ Thợ thủ công
+ Thương nhân
+ Thị dân
+ Nô tì
=> Đại Việt là Quốc gia thịnh vượng ở Đông Nam Á lúc bấy giờ
III - Tình hình Văn hóa - Giáo dục
1. Tình hình giáo dục và khoa cử
Dựng lại Quốc tử Giám, mở nhiều trường học
Nho giáo giữ vị trí độc tôn
Thi cử có quy cũ và chặt chẽ
Nhân xét : phát triển và đạt nhiều thành tựu rực rỡ
2. Văn học, khoa học, nghệ thuật
Văn học
+ Văn học chữ Hán và chữ Nôm được duy trì và phát triển
+ Nội dung : thể hiẹn tinh thần yêu nước sâu sắc
Khoa học
+ Nhiều tác phẩm phong phú , đa dạng
Nghệ thuật
+ Sân khấu : hát chèo , tuồng
+ Kiến trúc : Điêu khắc , đặc sắc với những công trình tiêu biểu
+ Biểu hiện : cung điện tại Lăng Kinh
+ Điêu khắc thời Lê Sơ có phong cách khối đồ sộ, kỹ thuật điêu luyện | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:20 am |
| | | | | IV - Một số danh nhân văn hóa xuất sắc của dân tộc/b]
[b]1. Nguyễn Trãi ( 1380 - 1442 )
Nguyễn Trãi không những là một nhà chính trị , quân sự tài ba , một anh hùng dân tộc mà còn là một danh nhân văn hóa thế giới. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị lớn về văn học , sử học, địa lí học như Quân trung từ mẹnh tập , Bình ngô đại cáo , Chí Linh sơn phú, Quốc âm thi tập , Dư địa chí ...
Tư tưởng của ông tiêu biểu cho tư tưởng của thời đại . Cả cuộc đời của nguyễn Trãi , khi đánh giặc cũng như khi xây dựng đất nước hoặc sáng tác thơ văn, ông luôn nêu cao lòng nhân nghĩa, yêu nước , thương dân. Ông thường suy nghĩa "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cyaf", "nơi thôn cùng, xóm vắng không một tiếng hờn giận óan xấu"
2. Lê Thánh Tông ( 1442 - 1497 )
Lê Thánh Tông không những là một vị vua anh minh , một tài năng xuất sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế , chính trị , quân sự mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn, nổi tiếng tài ba của dân tộc ta ở thế kỉ XV. Ông đã để lại một di sản thơ văn pong phú, đồ sộ
Cuối thế kỉ XV, ông sáng lập hội Tao Đàn và làm chủ sóai. Hội Tao Đàn ra đời đánh dấu bước phát triển cao về văn chương đường thời
3. Ngô Sĩ Liêm ( thế kỉ XV )
Ông là nhà sử học nổi tiếng của nước ta ở thế kỉ XV. Ông đỗ tiến sĩ năm 1442, từng được đảm nhận các chức vụ ở Hàn Lâm Viện, Phó đô ngự sử, Sử quân tu soạn. Ông là một trong những tác giả bộ Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển) biên chép một cách có hệ thông lịch sử dân tộctuwf thời Hồng Bàng đến năm 1427
4. Lương Thế Vinh ( 1442 - ? )
Ông đỗ trạng nguyên năm 1463, nổi tiếng thần đồng, học rộng, tài trí, khoáng đạt, bình dị, được vua và dân coi trọng. Ông còn là nhà toán học nổi tiếng của nước ta thời Lê Sơ. Ông có công trình Đại Thành toán pháp, Thiên Môn giáo khoa (nghiên cứu về Phật học). Ông được người đương thời ca ngợi là nhân vật tài hoa , danh vọng bậc nhất ; đến nay còn gọi là "trạng Lường" | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:20 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:21 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:21 am |
| | | | | Phong trào Tây Sơn
I - Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn
1. Xã hội đàng trong nửa sau thế kỉ XVIII
Chính quyền suy yếu :
* Mua quan bán tước phổ biến
* Quan lại thu thuế , ra sức bóc lột nhân dân
* Trương Phúc Loan nắm quyền hành, khét tiếng tham nhũng
=> Nhân dân sống cơ cực
+ Khởi nghĩa chàng Lía
+ Chàng Lía tên thật là Nguyễn Văn Đoan
+ Khởi nghĩa nổ ra ở Truông Mây (Bình Định)
+ Chủ trương : lấy của người giàu đem cho người nghèo
2. Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ
* Lãnh tụ :
_ Nguyễn Nhạc (Hai Trần , Biển Nhạc)
_ Nguyễn Huệ (Ba Thơm , Nguyễn Văn Linh)
_ Nguyễn Lữ (thầy Tư Lữ)
* Chuẩn bị :
Xây thành lũy
Lập kho tàng
Chiêu tập dân
Luyện tập võ nghệ
* Lực lượng :
Nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số
* Chủ trương
Lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo
II - Tây Sơn lật đổ chính quyền họ Nguyễn , đánh tan quân xâm lược Xiêm
1. Lật đổ chính quyền họ Nguyễn
Tháng 9/1773, nghĩa quân hạ thành Quy Nhơn
Năm 1774, mở rộng vùng kiểm soát từ Quảng Nam đến Bình Thuận
Năm 1775, trước tình thế bất lợi, Nguyễn Nhạc tạm hòa với quân Trịnh
Từ năm 1776 - 1783, nghĩa quân bốn lần đánh vào Gia Định
Năm 1777, lật đổ chính quyền họ Nguyễn
2. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút
Năm 1784, Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm => 5 vạn quân Xiêm tiến vào Gia Định
Quân Xiêm nhanh chóng tiến vào miền tây Gia Định
Tháng 1/1785, Nguyễn Huệ chọn Rạch Gầm - Xoài Mút làm trạn địa quyết chiến
Nguyễn Huệ dùng mưu nhử quân địch vào trận địa mai phục
* Kết quả : tiêu diệt quân Xiêm , số còn lại chạy về nước
* Ý nghĩa :
Đập tan âm mưu xâm lược của quân Xiêm
Khẳng định sức mạnh của quân Tây Sơn
Tây Sơn lật đổ chính quyền họ Trịnh
1. Hạ thành HPus Xuân , tiên ra Bắc Hà diệt họ Trịnh
Năm 1786, Nguyễn Huệ hạ thành Hpus Xuân
Năm 1787, nghĩa quân tiến ra Thăng Long, lấy danh nghĩa Phù Lê diệt Trịnh => lật đổ chính quyền họ Trịnh
2. Nguyễn Hữu Chỉnh âm mưu tạo phản, Nguyễn Huệ thu phục Bắc Hà
Trước sự suy yếu của nhà Lê, Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền xây dựng lực lượng chống quân Tây Sơn
Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm tiến ra Bắc Hà diệt chỉnh
Diệt xong Chỉnh, Nhậm lại có mưu đồ tạo phản
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc Hà diệt Nhậm
* Ý nghĩa : Tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn ở đàng trong và chính quyền Lê - Trịnh ở đàng ngòai. Thống nhất đất nước
IV - Tây Sơn đánh tan quân Thanh
1. Quân Thanh xâm lược nước ta
* Hoàn cảnh :
Vua Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh
1788, Tôn Sĩ Nghị đem 29 vạn quân Thanh tiến vào nước ta
* Chuẩn bị của nghĩa quân
Rời Thăng Long, chuẩn bị phòng tuyến Tam Điệp_Biên Sơn
2. Quang Trung đại phá quân Thanh
Tháng 11/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung
Vua Quang Trung chia 5 đạo quân tiến ra Bắc
Nghĩa quân dành thắng lợi ở Ngọc Hồi - Đống Đa, đánh tan 29 vạn quân Thanh tỏng vòng 5 ngày
3. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn
* Nguyên nhân : Tinh thần đoàn kết của nhân dân ta
Sự lãnh đạo tài tình , sáng suốt của Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân
* Ý nghĩa thăng lợi
Phong trào Tây Sơn đã lật đổ chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn , Trịnh , Lê
Đặt nền tản thống nhất quốc gia
Đánh tanc ác cuộc xâm lược Xiêm , Thanh.
Bảo vệ nền độc lập và lãnh thổ của tổ quốc
Quang Trung xây dựng đất nước
1. Phục hòi kinh tế , xây dựng văn hóa dân tộc
* Nông nghiệp :
Ban hành chiếu khuyến nông, giảm tô thuế
* Công , thương nghiệp :
Giảm thuế
Mở cửa ải, thông thương chợ búa
* Văn hóa , Giáo dục :
Ban chiếu lập học
Đề cao chữ Nôm
Lập viện sùng chính
2. Chính sách Quốc phòng , ngoại giao
* Âm mưu kẻ thù
Phía Bắc : Lê Duy Trỉ lén lút hoạt động
Nguyễn Ánh cầu viện Pháp
* Chủ trương của vua Quang Trung
Quân sự : củng cố quân đội về mọi mặt
Ngoại giao :
+ Đường lối đối ngoại khéo léo (mềm dẻo nhưng cương quyết)
+ Tiêu diệt nội phản
Ngày 16 / 9 / 1792 , Quang Trung qua đời | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:22 am |
| | | | | Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX
Chế độ phong kiến nhà Nguyễn
I - Tình hình chính trị , kinh tế
1. Nhà Nguyễn lập lại chế độ phong kiến tạp quyền
Nhân lcus nội bộ Tây Sơn suy yếu, hằng năm đến mùa gió đông - nam, Nguyễn Ánh đem thủy binh tiến ra lấn dần vùng đát của Tây Sơn
Năm 1802, Nguyễn Ánh đặt niên hiệu Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô
Năm 1815, ban hành luật Gia Long (Hoàng triều luật lệ)
Chia cả nước 30 tỉnh, 1 phủ thực thuộc
Vua nắm mọi quyền hình
=> Là chế độ quân chủ Trung Ương tập quyền
* Đối ngoại : Thần phục nhà Thanh
2. Kinh tế triềi Nguyễn
* Nông nghiệp :
Chú trọng khia hoang , lập ấp , lập đồn điền, không quan tâm đê điều
Kết quả : diện tích canh tác mở rộng, tuy nhiên ruộng bỏ hoang còn nhiều, đê vỡ, hạn hán liên tiếp xảy ra
* Thủ công nghiệp :
Nhiều ngành phát triển , thủ công tinh xảo
Nhận xét : Có điều kiện phát triển nhưng bị kiềm hãm
* Thương nghiệp :
Buôn bán trong nước phát triển
Hạn chế buôn bán với phương Tây
II - Các cuộc nổi dậy của nhân dân
1. Đời sống của nhân dân ưới triều Nguyễn
Địa chủ chiếm ruộng đất
Quan lại tham nhũng
Tô thuế nặng nề
=> Nhân dân khổ cực, dịch bệnh đói kém
2. Các cuộc nổi dậy
Khởi nghĩa Phan Bá Vành (1821 - 1827)
_ Đặt căn cứ tại Trà Lũ (Nam Định)
_1827, Quân triều đình bao vây, khởi nghĩa bị đàn áp
Khởi nghĩa Nong Văn Vân (1833 - 1835)
_ Là tù trưởng dân tộc Tày
_ Địa bàn : miền núi Việt Bắc , các làng mườn, người Việt ở Trung Du
_ 1835, khởi nghĩa bị dập tắt
Khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833 - 1835)
_ Là một thổ hào ở Cao Bằng
_ 6/1833, chiếm thành Phiên An
_ 1834, ông qua đời
_ Khởi nghĩa bị đàn áp
Khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 - 1856)
_ Là một nhà nho, nhà thơ lỗi lạc
_ 1855, hy sinh trong một trận đánh Sơn Tây
_ 1856, khởi nghĩa bị dập tắt
* Ý nghĩa :
Phong trào đấu tranh của nông dân và nhân dân các dân tộc dưới triều Nguyễn là sự kế thừa truyền thống chống áp bức , cường quyền ở các thế kỉ trước , nhát là ở thế kỉ XVIII | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:22 am |
| | | | | Sự phát triển của Văn hóa dân tộc cuối thế kỉ XVIII , nửa đầu thế kỉ XIX
I - Văn học - Nghệ Thuật
1. Văn học
Văn học nhân gian phát triển nhiều thể loại, phong phú
* Văn học chữ Nôm
_ Truyện Kiều của Nguyễn Du
_ Chinh phụ ngâm khúc
_ Hồ Xuân Hương , Bà Huyện Thanh Quan
Nội dung : phản ánh cuộc sống và xã hội, nêu lên nguyện vọng của nhân dân
2. Nghệ thuật
Văn nghệ nhân gian phát triển phong phú . Nghệ thuật sân khấu, tuồng chèo nổi tiếng khắp nơi, nhất là vào các dịp hội làng. Ở miền xuôi có các làng điệu quan họ, trống quân, hát lí , hát dặm, hát tuồng... Ở miền núi có hát lượn, hát khắp , hát xoan
Hàng laotj tranh nhân gian xuất hiện, đậm đà bản sắc dân tộc và truyền thống yêu nước (tranh Đánh vật, chăn trâu thổi sáo, Bà Triệu), trong đó, nổi tiếng nhất là dòng tranh Đông Hồ , bắc Ninh
Các công trình kiến trúc nổi tiếng nhất thời này là chùa Tây Phương (Thạch Thất , Hà Tây), đinh làng đinh bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Sang thế kỉ XIX, có cung điện lăng tẩm các vua Nguyễn ở Huế, Khuê văn các ở Văn Miếu (Hà Nội)
Chùa Tây Phương là một công trình kiến trúc đặc sắc, là biểu thức trang trí cung đình tương tự các lớp mái của các lầu, cửa của kinh thành tạo ra sự tôn vinh cao quý
Nghệ thuật tạc tượng, đúc đồng bấy giờ thể hiện tài năng bậc thầy của các nghệ nhan nước ta. Chùa Tây Phương có 118 tượng vị tổ với những phong cách khác nhau. Trong cung điện Huế có 9 đỉnh đồng lớn và nhiều công trình điêu khắc khác
[size=5]II - Giáo dục, khoa học, kĩ thuật [/color]
1. Giáo dục, thi cử
Thời Tây Sơn, với tinh thần dân tộc quật cường, Quang Trung ra chiếu lập học để chấn chỉnh lại việc học tập , thi cử, cho mở trường công ở các xã để con em nhân dân có điều kiện đi học ; đưa chữ Nôm vào thi cử.
Đến nửa đầu thế kỉ XIX - thời Nguyễn, tài liệu học tậo, nội dung thi cử không có gì thay đổi. Quốc Tử Giám đặt ở Huế, lấy con em quan lại, thổ hào, những người học giỏi ở địa phương vào học. Đáng chú ý là năm 1836, Minh Mạng cho thành lập tứ dịch quán để dạy tiếng nước ngoài (Pháp , Xiêm)
2. Sử học, địa lí, Y học
Việc biên soạn lịch sử, địa lí có những bước tiến quan trọng. Triều Tây Sơn có bộ Đại Việt sử kí tiền biên. Sử quán triều Nguyễn có Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện .... . Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú là những tác giả tiêu biểu cho thời kì này
Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn nhất của thế kỉ XVIII. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là Đại Việt thông sử , Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lcuj... . Phan Huy Chú là tác giả bộ Lịch triều hiến chương loại chí
Về y học có Lê Hữu Trác (Hải thượng Lãng Ông), là người thầy thuốc có uy tín lớn ở thế kỉ XVIII. Thông cảm sâu sắc với cuộc sống cơ cực của nhân dân. Ông đã dyaf công nghiên cứu các sách thuốc thời xưa, kết hợp với kinh nghiệm chứa pháp dược 2854 phương thức trị bệnh trong nhân gian. Ông có cống hiến suất sắc vào nền y học và dược học dân tộc, đặc biệt là bộ sách Hải thượng y tông tâm lĩnh (66 quyển)
3. Những thành tựu về kĩ thuật
Từ thế kỉ XVIII, một số kĩ thuật tiên tiến của phương Tây đã ảnh hưởng vào nước ta. Thợ thủ công Nguyễn Văn Tú học được nghề làm đồng hồ và kính thiên lí sau hai năm sống ở Hà Lan
Trên cơ sở nghiên cứu tàu thủy của phương Tây , năm 1839, các thợ thủ công đã đóng xong một chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:23 am |
| | | | | Những sự kiện chính của lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX
393 Ngô Quyền xưng vương , đóng đo ở Cổ Loa
965 - 967 Loạn 12 sứ quân
968 Dinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi vua
968 - 980 Nhà Đinh thành lập, đặt tên nước Đại Cồ Việt, đóng đo Hoa Lư
981 Lê Hoàn đánh bại quân xâm lược Tống
980 - 1009[right]Lê Hoàn lên ngôi vua, lập nhà Tiền Lê
1009 Lý Công uẩn lên ngôi vua , nhà Lý thành lập
1010 Lú Thái Tổ dời đô về Đại La, đổi tên Thăng Long
1042 Nhà Lý ban hành bộ luật hình thư
1054 Nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt
1070 Nhà Lý lập văn miếu thờ Khổng Tử
1075 Nhà Lý mở khoa thi đầu tiên, Lê Văn Thịnh đỗ đầu
1076 Lập Quốc tử giám ở Kinh đô
1077 Lý Thường Kiệt lãnh đạo kháng chiến chống Tống thắng lợi
1226 Trần Cảnh lên ngôi vua, nhà Trần thành lập
1230 Ban hành Quốc Triều hình luật
1253 Lập quốc học viện và giảng võ đường
1258 chiến thắng quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất
1285 Chiến thắng quân Nguyên lần thứ hai
1288 Chiến thắng quân Nguyên lần thứ ba
1400 Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần , lập nhà Hồ
1400 - 1407 Nhà Hồ quản lí đất nước, đổi quốc hiệu là Đại Ngu
1401 Đinh quan chế và hình luật của nước Đại Ngu
1406 Hơn 20 vạn quân Minh kéo vào xâm lược nước ta
1407 Cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại
1418 Cuộc khởi nghĩa Lam SƠn , do Lê Lợi Lãnh đạo , bùng nổ
1427 Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn tháng lợi
1428 Lê Lợi lên ngôi vua ở Đông đô, quốc hiệu Đại Việt
1442 Khoa thi hội đầu tiên của nhà Lê được tổ chức
1483 Lê Thánh Tông cho biên soạn và ban hành bộ luật hồng đức
1511 Khởi nghĩa Trần Tuân
1516 Khởi nghĩa Trần Cảo
1527 Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê, lập nhà Mạc
1543 - 1592 Thời kì Lê - Mạc và cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều
1592 nhà Mạc sụp đổ
1627 - 1672 Chiến tranh Trịnh - Nguyễn,đất nước bị chia cắt thành hai vùng
1739 - 1769 Khởi nghĩa Hoàng Công Chất
1740 - 1751 Khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương
1741 - 1751 Khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu
1771 Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn bùng nổ , do ba anh em Nguyễn Nhạc , Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo
1777 Nghĩa quân Tây Sơn lật đổ chính quyền chúa Nguyễn ở đàng trong
1785 Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút
1786 Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Bắc , lật đổ chính quyền chúa Trịnh
1789 Vua Quang Trung đại phá 29 vạn quân Thanh
1789 - 1792 Chính quyền của Quang Trung thực thi nhiều chính sách cải cách tiến bộ
1792 Quang Trung đột ngột qua đời
1802 Nguyễn Ánh lên ngôi vua, triều Nguyễn được thành lập
1804 Gia Long đặt quốc hiệu là VN, kinh đô đóng ở phú Xuân (HUế )
1815 Ban hành luật gia long (Hoàng triều luật lệ)[/right
1820[right]Minh Mạng lên ngôi hoàng đế
1821 - 1827 Khỡi nghĩa Phan Bá Vành
1831 - 1832 nhà Nguyễn (thời Minnh Mạng) sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong cả nươc
1833 - 1835 Khởi nghĩa Nông Văn Vân
1838 Khởi nghĩa Lê Văn Khôi
1854 - 1856 Quôc hiệu Đại Nam
1858 Khởi nghĩa Cao Bá Quát
1859 Thực dan Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo sơn Trà - Đà Nẵng , Lịch sử Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:23 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:24 am |
| | | | | HỌ HỒNG BÀNG
I. HỌ HỒNG BÀNG (2879 - 258 TCN), QUỐC HIỆU VĂN LANG, KINH ĐÔ PHONG CHÂU, KINH DƯƠNG VƯƠNG - LẠC LONG QUÂN - HÙNG VƯƠNG: - Kinh Dương Vương Lộc Tục là thủy tổ của cộng đồng các dân tộc Việt gọi là nước Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân. - Lạc Long Quân (Sùng Lãm) lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ, đẻ ra một bọc 100 trứng nở 100 người con trai là tổ tiên của người Bách Việt. Sau nhà vua từ biệt bà Âu Cơ chia 50 con theo mẹ lên núi 50 con theo cha về phía Nam miền biển, phong cho con trưởng làm Hùng Vương. - Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú).
II. NHÀ THỤC (257 - 208 TCN), QUỐC HIỆU ÂU LẠC KINH ĐÔ PHONG KHÊ (CỔ LOA, HÀ NỘI): - Thục Phán thủ lĩnh người Âu Việt hợp nhất nước Văn Lang của người Lạc Việt, xưng là An Dương Vương, quốc hiệu Âu Lạc đóng đô tại Cổ Loa. - Năm 218 TCN Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân chinh phục Bách Việt, chỉ huy là viên tướng Đồ Thư. Người Việt tiến hành chiến tranh du kích suốt 10 năm và phản công quân Tần, bắn chết Đồ Thư. Sau đó An Dương Vương tổ chức xây thành Cổ Loa. - Triệu Đà sau khi đánh Âu Lạc mãi không được vì có thành Cổ Loa kiên cố bèn dùng mưu hòa hoãn, đưa con trai là Trọng Thủy sang ở rể lấy Mỵ Châu, con gái An Dương Vương. Trọng Thủy lấy cắp nỏ thần trốn về nước, Triệu Đà cướp được nước ta, lập nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông), từ đó nước ta thuộc Triệu. - Năm 111 TCN nhà Hán chiếm được Nam Việt, đổi thành là Giao Chỉ bộ. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:24 am |
| | | | | CHỐNG PHONG KIẾN PHƯƠNG BẮC
- Trưng nữ Vương (Trưng Trắc và Trưng Nhị(năm 40 -43), nổi dậy đánh đuổi Tô Định đóng đô ở Mê Linh. Năm 41 nhà Hán sai Mã Viện đưa 20 vạn quân sang xâm lược. Ngày 6/2 năm Quý Mão (43) sau khi bắn hết những mũi tên cuối cùng vào kẻ thù, Hai Bà Trưng gieo mình xuống sông Hát tuẫn tiết. - Nhà Đông Hán mất, nước ta lúc đó thuộc Đông Ngô. Năm 248 bà Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa tấn công quân Đông Ngô, phá tan các thành của giặc. Vua Ngô hốt hoảng sai Lục Dận đem hàng vạn tinh binh và nhiều thủ đoạn mua chuộc và dụ dỗ. Cuối cùng, bà Triệu hy sinh trên núi Tùng (Thanh Hoá), lúc đó bà mới 23 tuổi. - Nước ta sau đó tiếp tục sự cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc là: Tấn, Lương. - Trước tình cảnh nhân dân ta bị sự đô hộ hà khắc của nhà Lương do thứ sử Tiêu Tư cai trị , năm 542 Lý Bí đứng lên lãnh đạo nhân dân nổi dậy và đã chiếm hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên. Tháng 2 năm 544, ông xưng Hoàng đế lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, kinh đô là Long Biên. Đầu năm 545, nhà Lương tấn công nước ta, do ít quân Lý Nam Đế lui quân và sau đó ông ốm mất, trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến. Triệu Quang Phục đưa quân về đầm Dạ Trạch đóng quân, năm 548 ông xưng là Triệu Việt Vương và tiến đánh quân Lương thu thành Long Biên. Năm 571 Lý Phật Tử sau khi giả hòa liền đánh úp, vì không phòng bị nên ông phải nhảy xuống biển tự sát. Năm 602 khi nhà Tùy đem quân sang xâm lược thì Lý Phật Tử hèn nhát đầu hàng. Nước ta lại bị sự đô hộ của nhà Tùy. - Sau đó nhà Đường lên trị vì Trung Hoa dùng chính sách tàn bạo, hà khắc, âm mưu đồng hóa nước ta. Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những dân phu gánh vải cùng nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Khắp nơi nhân tài về tụ hội và suy tôn ông là Mai Hắc Đế, đóng đô ở Vạn An (Thanh Hóa). Mai Hắc Đế đem quân giải phóng thành Tống Bình (Hà Nội), bọn đô hộ phải bỏ thành tháo chạy về nước. Nhà Đường cho Dương Tư Húc sang đàn áp, các trận đánh diễn ra ác liệt cho đến cuối cùng Mai Hắc Đế rút lui và bệnh nặng mà mất. - Phùng Hưng xuất thân là hào trưởng Đường Lâm, dưới ách đô hộ của nhà Đường, bèn cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa từ năm 766-789. Năm 791 ông bao vây thành Tống Bình, buộc tên quan Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Sau khi chiếm được thành ông được dân chúng suy tôn là Bố Cái Đại Vương. Sau khi giành chủ quyền được 7 năm thì ông mất. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:24 am |
| | | | | THỜI KỲ XÂY NỀN TỰ CHỦ (905-938)
I. THỜI KỲ XÂY NỀN TỰ CHỦ (905-938) - Một lần nữa, trước tình cảnh nhân dân ta thống khổ trước bọn giặc Đường, Khúc Thừa Dụ một hào phú khởi binh đánh đuổi nhà Đường xưng là Tiết Độ Sứ, buộc nhà Đường công nhận ông là người đứng đầu đất Việt. Năm 907, ông mất và trao quyền cho con là Khúc Hạo. Sau đó nhà Đường mất, nhà Hậu Lương rồi Nam Hán lên thay. Nam Hán cho quân sang đánh, Khúc Thừa Mỹ là con Khúc Hạo thua và bị bắt. Dương Đình Nghệ là tướng của nhà họ Khúc đánh đuổi giặc Nam Hán và xưng là Tiết Độ Sứ vào năm 931 nhưng ông bị tên Kiều Công Tiễn ám sát.
II. NHÀ NGÔ (939 - 965), KINH ĐÔ CỔ LOA: - Ngô Quyền là con rể Dương Đình Nghệ, khi nghe bố vợ bị sát hại và nhà Nam Hán cho thái tử Lưu Hoằng Thao sang xâm lược nước ta, đã nhanh chóng tập hợp lực lượng tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đón đánh quân Nam Hán. - Tháng 11 năm 938 quân ta bố trí các cọc nhọn bịt sắt cắm xuống sông Bạch Đằng rồi dụ chiến thuyền giặc vào trận địa mai phục. Khi thủy triều xuống, quân ta phản công dữ dội làm cho thuyền giặc va cọc nhọn đắm gần hết, Hoằng Thao bị đâm chết tại trận (Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 1). Sau chiến thắng, Ngô Quyền lên ngôi vua được 5 năm thì mất, em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi tự lập là Dương Bình Vương. - Khi Dương Tam Kha cướp ngôi, các nơi không phục, giặc giã nổi lên liên miên, gây cảnh "nồi da nấu thịt" gần 20 năm hay còn gọi là Loạn 12 sứ quân. VI. NHÀ ĐINH (968 - 980), QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT, KINH ĐÔ HOA LƯ: - Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư (Ninh Bình) theo dưới cờ của sứ quân Trần Lãm, chiêu mộ hào kiệt dẹp loạn 12 sứ quân. Năm 968 ông lên ngôi vua xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế đóng đô ở Hoa Lư. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị tên thái giám giết chết, Đinh Toàn là con mới lên 6 tuổi. Thấy cơ hội như vậy nhà Tống bèn đưa quân sang xâm lược. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:25 am |
| | | | | NHÀ TIỀN LÊ - NHÀ LÝ
I. NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009), KINH ĐÔ HOA LƯ: - Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thanh Hóa. Ông theo Đinh Liễn đánh giặc lập nên nhà Đinh. Khi Đinh Tiên Hoàng chết và nhà Tống sang xâm lược nước ta, vì lợi ích dân tộc Thái hậu Dương Vân Nga trao ngôi vua cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn. Ông lên ngôi lấy niên hiệu là Lê Đại Hành đóng đô ở Hoa Lư. Ông có công phá quân Tống trên sông Bạch Đằng năm 981 (Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 2). - Sau đó nhà Tiền Lê trải qua các đời vua là: Lê Trung Tông (1005) và Lê Ngọa Triều (1005-1009).
II. NHÀ LÝ (1010 - 1225) QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT, KINH ĐÔ HOA LƯ. NĂM 1010 DỜI ĐÔ VỀ THĂNG LONG, TỪ NĂM 1054 ĐỔI QUỐC HIỆU LÀ ĐẠI VIỆT: - Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Hà Bắc), mồ côi mẹ từ nhỏ được nhà sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi. Thời Lê ông làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua (Lý Thái Tổ. - Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La. Một buổi sáng nhà vua thấy Rồng vàng bay lên bèn đặt tên là kinh đô Thăng Long. - Nhà Lý trải qua các đời vua là: Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128), Lý Thần Tông (1128-1138), Lý Anh Tông (1138-1175), Lý Cao Tông (1176-1210), Lý Huệ Tông (1211-1224) và Lý Chiêu Hoàng (1224-1225). - Thái úy Lý Thường Kiệt sinh năm 1019, lúc nhỏ tên thật là Ngô Tuấn, khi lớn lên do tính siêng năng, cần mẫn ông được mang họ vua. Năm 1075, nhà Tống do Vương An Thạch làm tể tướng âm mưu xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt tâu với Thái hậu Ỷ Lan xin cho đánh giặc. Ông cùng Tông Đản đem quân sang đánh phá các căn cứ tập kết lương thực ở Ung Châu, Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông, Trung Quốc) rồi chủ động rút quân về nước lập phòng tuyến tại Nam sông Cầu. - Năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết dẫn 10 vạn quân tiến đánh nước ta và bị chặn tại phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu). Chính nơi đây, Lý Thường Kiệt cho ra đời bài thơ:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
Tạm dịch :
"Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành đã định tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời".
Đó được xem là "Bản Tuyên ngôn độc lập" lần thứ I của nước ta. Quân Tống thua chạy về nước. Lý Thường Kiệt đã có công đánh Tống sau đó ông lại có công bình Chiêm. - Ngoài ra nhà Lý còn có một số danh nhân như: nguyên phi Ỷ Lan., thái sư Lý Đạo Thành., thái úy Tô Hiến Thành., Lý Phụng Hiểu.. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:25 am |
| | | | | NHÀ TRẦN (1225 - 1400)-NHÀ HỒ
I.NHÀ TRẦN (1225 - 1400), QUỐC HIỆU ĐẠI VIỆT, KINH ĐÔ THĂNG LONG: - Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, ép Lý Huệ Tông đi tu nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng và đưa cháu ông là Trần Cảnh làm chồng cho Chiêu Hoàng. Năm 1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh làm vua niên hiệu Kiến Trung. - Các đời vua Trần gồm: Trần Thái Tông-Trần Cảnh (1225-1258), Trần Thánh Tông (1258-1278), Trần Nhân Tông (1279-1293), Trần Anh Tông (1293-1314), Trần Minh Tông (1314-1329), Trần Hiến Tông (1329-1341), Trần Dụ Tông (1341-1369), Trần Nghệ Tông (1370-1372), Trần Duệ Tông (1373-1377), Trần Phế Đế (1377-1388), Trần Thuận Tông (1388-1398), Trần Thiếu Đế (1398-1400).
Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ I (1258): - Năm 1257, Hốt Tất Liệt sai tướng Ngột Lương Hợp Thai đánh nước Đại Lý và sai sứ giả dụ hàng ta, vua Trần Thái Tông bắt giam sứ Mông Cổ. Ngày 12/12/1257, Ngột Lương Hợp Thai đem 10 vạn quân sang xâm lược. Thế giặc quá mạnh, ta bỏ kinh thành Thăng Long về Khoái Châu, vua hỏi ý kiến Trần Thủ Độ, ông khảng khái nói: "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo". - Quân dân Đại Việt dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực kẻ thù. Sau đó quân ta tổ chức phản công ở Đông Bộ Đầu thắng lợi, đuổi quân Nguyên rút chạy về nước.
Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ II (1285): - Lúc này quân Mông Cổ đã chiếm toàn bộ Trung Quốc, vua Trần Thánh Tông đã thực hiện một chính sách mềm mỏng nhưng kiên quyết và chuẩn bị lực lượng đối phó. - Tháng 12-1284, vua Nguyên sai Thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang xâm lược và thêm 10 vạn quân của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh lên. Dưới tay Thoát Hoan có các tướng như: Lý Hằng, Lý Quán, Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đãi, Phàn Tiếp… - Trước khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta thì Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã sắc phong cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế chỉ huy toàn quân dân Đại Việt chống giặc. - Các Vua Trần tổ chức hội nghị quân sự ở Bình Than. Hưng Đạo Vương công bố "Hịch tướng sĩ" để khích lệ lòng yêu nước của tướng sĩ. Các Vua Trần cũng tổ chức hội nghị các bô lão tại điện Diên Hồng để hỏi ý nên hòa hay đánh, cả nước đồng lòng "Đánh". Quân và dân ta khắc vào tay 2 chữ "Sát Thát" (giết giặc Nguyên) biểu lộ tinh thần quyết tâm đánh giặc. - Dưới sự lãnh đạo tuyệt vời của Trần Hưng Đạo, quân ta tổ chức cầm cự và bỏ thành Thăng Long bảo toàn lực lượng, tiếp tục dùng vườn không nhà trống và chiến tranh du kích làm tiêu hao giặc, đợi cho quân Nguyên hết lương thực rồi tổ chức phản công. Với chiến thắng lẫy lừng ở Tây Kết, Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp… chỉ trong vòng nửa năm quân Nguyên bị đánh tơi bời phải rút chạy, Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán bị chém tại trận, còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy trốn về nước. Ngày 6/6/1285, quân ta tiến về giải phóng kinh đô Thăng Long.
Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ III (1288): - Sau 2 lần thất bại nặng nề, Nguyên Thế Tổ tức giận huy động trên 30 vạn quân giao cho Trấn nam vương Thoát Hoan thống lĩnh cùng các tướng A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp… sang xâm lược nước ta một lần nữa, còn sai Trương Văn Hổ theo đường biển vận tải 70 vạn thạch lương thực cung cấp cho quân sĩ. Mùa đông 1287 quân Nguyên ồ ạt sang đánh nước ta. - Một lần nữa Trần Hưng Đạo cùng toàn quân, toàn dân áp dụng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống. Ngày 8/1/1288, quân ta đánh bắt được 300 thuyền giặc tại cửa biển Đại Bàng. Trần Khánh Dư tấn công vào đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, cướp được nhiều lương thực và vũ khí của giặc. - Trên khúc sông Bạch Đằng, ngày 8/3/1288 sau khi bố trí trận địa cọc nhọn, quân ta nhử quân Nguyên vào trận địa cọc, khi thủy triều xuống quân ta đồng loạt tấn công, quân giặc chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Quân ta bắt sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp và hơn 400 chiến thuyền giặc, Thoát Hoan khiếp đảm bỏ chạy về nước.(Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 3) - Vua Trần Nhân Tông đem các tướng giặc bị bắt tế lễ thắng trận ở Chiêu Lăng. Khi vua cử lễ bái yết, có làm bài thơ:
"Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kim âu"
Dịch:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá Non song ngàn thưở vững âu vàng
-Trần Nhật Duật, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng, Lê Văn Hưu, Phạm Ngũ Lão… | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:26 am |
| | | | | II. NHÀ HỒ (1400-1407), QUỐC HIỆU ĐẠI NGU, KINH ĐÔ TÂY ĐÔ (THANH HÓA): - Năm 1394, Hồ Quý Ly lên làm Phụ chính Thái sư thâu tóm quyền bính, ông cho dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô. Năm 1400, Hồ Quý Ly bức Trần Thiếu Đế nhường ngôi lập nên nhà Hồ. - Hồ Quý Ly cho cải cách ruộng đất, phát hành tiền giấy, tăng cường làm thủy lợi, đào sông, đắp đường, đúc súng thần công…Các cải cách của ông có tính chất toàn diện đi trước thời đại nhưng vì mắc tội bức tử vua Thiếu Đế và giết hại 370 tôn tộc, quan lại nhà Trần và không được lòng dân nên Hồ Quý Ly không tập hợp được lực lượng toàn dân chống giặc Minh, nên năm 1407 bố con ông bị bắt đem về Trung Quốc. - Nhà Hậu Trần có Giản Định Đế cuối thời Hồ từ năm 1407 đến 1409 khởi binh khôi phục nhà Trần nhưng không nghe lời trung thần nên mang họa diệt vong. Đến thời kỳ Trùng Quang Đế, tháng 4/1414 do ít quân không chống lại quân Minh, nhà vua cùng 2 cận thần là Đặng Dung và Nguyễn Súy nhảy xuống biển tự tử. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:26 am |
| | | | | TRIỀU LÊ SƠ -NHÀ MẠC-NHÀ LÊ TRUNG HƯNG(1428-1788)
I. TRIỀU LÊ SƠ (1428-1527), QUỐC HIỆU ĐẠI VIỆT, KINH ĐÔ ĐÔNG ĐÔ (HÀ NỘI): - Quân Minh chia nước ta thành quận huyện để cai trị, chúng bắt nhân dân làm tôi tớ, thuế má nặng nề. Ngày 7/2/1418, Lê Lợi cùng những hào kiệt như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lưu Nhân Chú… chính thức phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương. - Cuộc kháng chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm. Có lúc nghĩa quân bị khốn đốn có lúc phải đào củ chuối và ăn cả ngựa, Lê Lai đã liều mình cải trang hy sinh cứu Lê Lợi thoát khỏi vòng vây. Cuộc chiến tranh dùng chiến thuật du kích để tiêu diệt địch kết hợp với thuyết phục giặc đầu hàng. Cuối cùng, khi quân ta bao vây thành Đông Quan, nhà Minh cho Liễu Thăng đem 10 vạn quân cứu viện nhưng đã bị tướng Trần Lựu chém rơi đầu ở ải Chi Lăng. - Ngày 16/12/1427, Lê LợiNguyễn Trãi cho tướng giặc là Vương Thông đến hứa sẽ không xâm phạm Đại Việt nữa. Sau đó ta lấy đức hiếu sinh cung cấp thuyền bè lương thực cho 10 vạn quân Minh về nước. Ngày 15/4/1428, nghĩa quân hoàn toàn thắng lợi, Lê Lợi chính thức lên ngôi vua ở điện Kính Thiên. Cũng tại nơi đây Nguyễn Trãi ban bố Bình Ngô đại cáo, được xem là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta, là thiên anh hùng ca bất hủ, nêu cao ý chí độc lập tự cường của dân tộc ta. Triều Lê Sơ trải qua các vua: Lê Thái Tổ-Lê Lợi (1428-1433), Lê Thái Tông (1433- 1442), Lê Nhân Tông (1442- 1459), Lê Thánh Tông (1460-1497), Lê Hiến Tông (1498-1504), Lê Túc Tông (1504), Lê Uy Mục (1505-1509), Lê Tương Dực (1509-1516), Lê Chiêu Tông (1516-1522), Lê Cung Hoàng (1522-1527). - Trong triều Lê Sơ có các sự kiện chính như: năm 1442 vua Lê Thái Tông đi tuần về Lệ Chi Viên đã bạo bệnh mất năm 20 tuổi. Bọn gian thần vu cáo và "tru di tam tộc" Nguyễn Trãi. Sau này vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi. -Vua Lê Thánh Tông là vị vua hết lòng chăm lo việc nước, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, giao lưu buôn bán. Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiêu của nhà vua là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và tiến bộ nhất dưới thời phong kiến ở nước ta. Vua Lê Thánh Tông còn lập ra hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó. -Cho đến ngày 15/6/1527, Mạc Đăng Dung đem quân về Thăng Long bức tử vua Lê Cung Hoàng, lập nên nhà Mạc. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:27 am |
| | | | | II. NHÀ MẠC (1527-1592), KINH ĐÔ ĐÔNG ĐÔ: - Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập nên nhà Mạc và trải qua các đời vua: Mạc Đăng Dung (1527-1529), Mạc Đăng Doanh (1530-1540), Mạc Phúc Hải (1541-1546), Mạc Phúc Nguyên (1546-1561), Mạc Mậu Hợp (1562-1592). - Ngày 25/11/1592 thủy quân Lê-Trịnh tiến đánh các huyện Kim Thành, Nam Sách, Kinh Môn, quân Mạc tan vỡ, Mạc Mậu Hợp bị bắt và bị chém đầu ở bãi cát Bồ Đề. Con cháu nhà Mạc theo lời dạy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm rút lên Cao Bằng kéo dài với các vua: Mạc Toàn (1592-1592), Mạc Kính Chỉ (1592-1593), Mạc Kính Cung (1593-1625), Mạc Kính Khoan (1623-1625), Mạc Kính Vũ (1638-1677) rồi mới bị diệt hẳn. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:27 am |
| | | | | III. NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1533-1788): - Tháng 12/1540, Nguyễn Kim kéo quân t? Ai Lao v? giúp Lê Trang Tơng (1533-1548) đánh nhà Mạc và chi ếm được Tây Ðơ, nước ta lúc dĩ hình thành "NamBắc triều", hai bên Lê-Mạc nội chiến tàn khốc. Năm 1545, Nguyễn Kim bị đầu độc, Trịnh Kiểm lên thay mở đầu thời kỳ "Vua Lê, Chúa Trịnh" sau khi vua Lê Trang Tông mất bèn lập thái tử Duy Huyên lên ngôi là vua Lê Trung Tông (1548-1556), rồi sau đó là vua Lê Anh Tông (1557-1573). - Nguyễn Hoàng là con Nguyễn Kim lo sợ xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ xứ ThuậnQuảng và xưng chúa Nguyễn, bắt đầu thời kỳ "TrịnhNguyễn phân tranh". Trịnh Kiểm ốm mất, anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh giành quyền binh nên đánh lẫn nhau. Sau đó Trịnh Tùng lập vua Lê Thế Tông (1573-1599) và bắt Mạc Mậu Hợp, đón vua về Thăng Long. Vua Lê Thế Tông mất, Lê Kính Tông (16001619) mưu cùng Trịnh Xuân giết Trịnh Tùng nhưng thất bại nên bị bức chết, Lê Thần Tông (16191622) lên ngôi. Sau đó vua Lê Chân Tông (16431649) lên ngôi không lâu vị bệnh mất nên vua Lê Thần Tông trở lại ngôi vua lần thứ 2. Tiếp sau nhà Lê còn có các vua như: Lê Huyền Tông (16631671), Lê Gia Tông (16721675), Lê Hy Tông (16751705), Lê Dụ Tông (17051729), Lê Duy Phường (1729 -1732), Lê Thuần Tông (17321735), Lê Ý Tông (17351740), Lê Hiển Tông (17401786) và Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) (1787 -1788). | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:27 am |
| | | | | NHÀ TÂY SƠN-NHÀ NGUYỄN
I. NHÀ TÂY SƠN (1778 - 1802), KINH ĐÔ PHÚ XUÂN: - Anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ, cháu hậu duệ của trạng nguyên Hồ Hưng Dật, sau khi chúa Nguyễn đánh ra Nghệ An bắt đem về ấp Tây Sơn đổi thành họ Nguyễn. - Năm 1771 anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa và cho đến năm 1778 quân Tây Sơn diệt được chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế niên hiệu Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân. - Năm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm cho 2 vạn quân thủy và 300 chiến thuyền sang xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên đoạn sông Rạch Gầm - Xoài Mút. - Năm 1786, vua Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ tiến quân đánh chúa Trịnh với khẩu hiệu "Phù Lê, diệt Trịnh", tiến quân vào Thăng Long ngày 25/6. Vua Lê Hiển Tông phong Nguyễn Huệ làm Nguyên Súy Dực chính phù vận Uy Quốc Công và gả công chúa Ngọc Hân cho ông. Nguyễn Nhạc chia nước ta làm 3 vùng: + Từ đèo Hải Vân trở ra thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. + Đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ. + Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc đóng đô ở Quy Nhơn. - Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu vào chiếm đóng Thăng Long. Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm chủ động rút quân về Tam Điệp chờ lệnh. Ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ xuất quân ra Bắc Hà và theo ý các tướng và sáng danh nghĩa với cả nước ông lên ngôi vua niên hiệu Quang Trung. - Ngày mồng năm tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), đội quân thần tốc của Hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh, tiêu biểu là trận Ngọc Hồi- Đống Đa, tiến vào giải phóng Thăng Long. - Năm 1792, Nguyễn Huệ từ trần, Quang Toản lên ngôi vua. - Quang Toản lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh, vì nghe lời gièm pha nên cho đến năm 1801 để Nguyễn Ánh đánh chiếm được Phú Xuân và cho đến năm 1802 thì bị bắt. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:28 am |
| | | | | II. NHÀ NGUYỄN (1802 - 1945), QUỐC HIỆU VIỆT NAM (TỪ MINH MẠNG ĐỔI LÀ ĐẠI NAM), KINH ĐÔ HUẾ: - Sau khi diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh cho trả thù hết sức tàn bạo vua Cảnh Thịnh và các tướng. Năm 1804 nhà Thanh phong vương cho Nguyễn Ánh niên hiệu là Gia Long và đặt tên nước là Việt Nam. - Khi Gia Long mất thì Thái tử Đảm lên ngôi lấy niên hiệu là Minh Mạng (1820 - 1840). Vua Minh Mạng rất quan tâm đến việc học hành, khoa cử, năm 1821 cho dựng Quốc Tử Giám. Nhà vua cũng rất quan tâm đến võ bị, nhất là thủy quân. Ngoài ra Minh Mạng đã cho hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ. - Nhà Nguyễn sau đó gồm các vua: Thiệu Trị (1841 -1847), Tự Đức (1848 - 1883), Dục Đức (làm vua 3 ngày-năm 1883), Hiệp Hòa (6 tháng-năm 1883), Kiến Phúc (1883 - 1884), Hàm Nghi (1884 - 1885), Đồng Khánh (1885 -1888), Thành Thái (1889 - 1907), Duy Tân (1907 - 1916), Khải Định (1916 - 1925), Bảo Đại (1926 - 1945). - Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công nước ta tại Đà Nẵng rồi sau đó đánh chiếm Gia Định nhưng triều đình không có biện pháp gì chống trả. Do đó, triều đình Huế phải ký hòa ước Quý Mùi (1883), rồi hòa ước Pa-tơ-nốt (1885), đất nước ta bị chia cắt làm 3 kỳ, chịu sự bảo hộ của Pháp. Năm 1885, sau khi tấn công Pháp ở đồn Mang Cá thất bại, Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị. Tại căn cứ Tân Sở nhà vua ra chiếu Cần Vương và được đông đảo dân chúng và sĩ phu yêu nước hưởng ứng. Ngày 14/11/1888, giặc Pháp bắt được nhà vua, thuyết phục dụ dỗ không được, thực dân Pháp cho đày vua ở An-giê-ri. - Đến cuối năm 1916, vua Duy Tân bí mật gặp các chí sĩ yêu nước như Trần Cao Vân và Thái Phiên để bàn việc khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa bị lộ, nhà vua cũng bị thực dân Pháp đày ra đảo Rê-uy-ni-on. - Sau này dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh, cuộc tổng khởi nghĩa 19/8/1945 thắng lợi, đưa nước ta thoát khỏi ách đô hộ của Pháp - Nhật. Ngày 30/8/1945, trước 5 vạn người dân Huế, Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng, kết thúc các triều đại phong kiến ở nước ta. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:30 am |
| | | | | III. NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG THỰC DÂN PHÁP TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI (1858 - 1930): 1. Khởi nghĩa Trương Định (1859 - 1864): Năm 1859, Pháp đánh chiếm Gia Định thành, Trương Định tổ chức khởi nghĩa ở Gò Công. Năm 1862, triều đình ra lệnh giải binh nhưng ông cương quyết kháng Pháp đến cùng, được nhân dân suy tôn là Bình Tây Đại nguyên soái. Cuộc khởi nghĩa đến năm 1864 thì bị dập tắt. 2. Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861 - 1868): Năm 1861, Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy vọng (Espérance) của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông, rồi lập căn cứ ở Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc. Năm 1868, ông bị giặc bắt, trước khi bị hành hình ông nói thẳng trước mặt chúng: "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây". 3. Khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887): Do Đinh Công Tráng chỉ huy lập căn cứ ở Ba Đình (Nga Sơn, Thanh Hóa) gây cho Pháp nhiều thiệt hại. 4. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1889): Do Nguyễn Thiện Thuật dựng cờ khởi nghĩa trong suốt mấy năm liền đánh du kích tiêu diệt địch tại Khoái Châu (Hưng Yên). 5. Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 - 1892): Do Tống Duy Tân cùng Cao Điền dựng cờ khởi nghĩa ở Hùng Lĩnh (Thanh Hoá). Năm 1892, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tống Duy Tân bị bắt và hy sinh anh dũng. 6. Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896): Do Phan Đình Phùng hưởng ứng chiếu Cần Vương, mộ quân đánh Pháp, cầm cự với giặc trên 10 năm. Cuối Năm 1895, Phan Đình Phùng lâm bệnh mất và phong trào lụi tàn đến năm 1896 thì chấm dứt. 7. Khởi nghĩa Yên Thế (1887 - 1913): Do Hoàng Hoa Thám (tức Đề Thám) chỉ huy ở Yên Thế. Thực dân Pháp nhiều lần mở những cuộc tiến công, hai lần phải đình chiến và dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ nhưng đều thất bại. Cuối cùng chúng lập mưu sát hại ông mới dập tắt được cuộc khởi nghĩa. 8. Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917 - 1918): Ngày 30/8/1917, Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn) lãnh đạo binh lính yêu nước khởi nghĩa phá nhà lao. Đến ngày 10/1/1918, cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp dập tắt. 9. Cuộc bạo động Yên Bái (1930): Ngày 10/2/1930, cuộc bạo động của Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy, nổ ra ở Yên Bái và một vài nơi khác nhưng đã bị dập tắt nhanh chóng. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:32 am |
| | | | | Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà ( 1945-1975)
Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng, nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 2 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Ðình (Hà Nội), khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân Việt Nam đã phải đương đầu với những âm mưu và hành động xâm lược của nhiều kẻ thù bên ngoài. Năm 1946, thực dân Pháp đã trở lại xâm lược Ðông Dương. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Ðông Dương (tên của Ðảng Cộng Sản Việt Nam thời đó) và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành cuộc kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của mình. Chiến thắng Ðiện Biên Phủ lịch sử đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ lần thứ nhất của nhân dân Việt Nam. Với Hiệp định Genève (1954), độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được thế giới chính thức thừa nhận. Sau khi Thực dân Pháp rút khỏi miền Bắc, nước Việt Nam vẫn bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc (từ vĩ tuyến 17 trở ra) là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước. ở miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào gọi là Việt Nam Cộng hoà, vẫn diễn ra cuộc chiến tranh giữa một bên là nhân dân miền Nam và một bên là chính quyền Sài Gòn và quân đội Mỹ. Nhân dân Việt Nam một lần nữa phải chịu đựng một cuộc chiến tranh ác liệt trong gần 20 năm để giành lại độc lập dân tộc. Sau hiệp định Pari (1973), quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam. Với chiến thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền Sài Gòn sụp đổ. Ðất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, lấy tên là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thủ đô là Hà Nội. Dân tộc Việt Nam bắt tay vào khắc phục những hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Ngày nay, dân tộc Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới xây dựng và phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:32 am |
| | | | | Nhà giáo Bùi Sĩ Liêm - Một nhà nho đáng kính trọng
Ở nước ta ngày xưa có nhiều nhà giáo cũng là nhà nho được nhiều người kính trọng như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đặng Trần Côn, Vũ Tông Phan, Vũ Thạnh, Bùi Sĩ Liêm ... Bài này chỉ nói về Bùi Sĩ Liêm. Bùi Sĩ Liêm (hoặc Bùi Vĩ Liêm, Bùi Liêm) là người làng Kinh Lũ (nay thuộc xã Đông Hưng) huyện Đông Quan, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Ông sinh năm 1690, thuở trẻ đi học ở Quốc Tử Giám, Thăng Long nổi tiếng là người học giỏi. Trong các buổi bình văn ở Quốc Tử Giám bao giờ văn ông cũng được xếp hạng ưu vì "lời văn đẹp đẽ phong phú hơn cả một thời" như Phan Huy Chú đã nhận xét. Ở kinh sư lúc ấy có câu nói: "Đông Quan Kinh Lũ, đương kim độc bộ" (Người làng Kinh Lũ Quan hiện nay học giỏi có một) Năm 18 tuổi ông đỗ thi hương rồi lên học ở kinh đô. Năm 26 tuổi ông thi một lần đỗ ngay đình nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Ất Mùi (1715) đời Lê Dụ Tông và Trịnh Cương. Tính ông rất khảng khái, cứng cỏi. Ông thăng tiến khá nhanh trên đường sĩ hoạn, trong 16 năm đã từ hàm chánh thất phẩm lúc đầu lên đến chánh ngũ phẩm, giữ chức Thái thường tự khanh. Năm 1731 Trịnh Giang kêu gọi các quan lớn nhỏ trình bày các kiến nghị cốt yếu, thiết thực với thời cuộc để ông ta chọn lấy những điều cần thiết mà thực hiện. Trịnh Giang ra chỉ dụ vào tháng 5 năm Tân Hợi (1731) thì tháng 6 ông dâng lên tờ khải 10 điều, nội dung đại thể có các vấn đề chính như sau:
1. Nêu lên sự nghi ngờ của nhân dân về việc Trịnh Cương ép vua Lê Dụ Tông, bắt vua thoái vị để làm thái thượng hoàng, khuyên Trịnh Giang nên nối chí tổ tiên tôn phù vua Lê. 2. Nói về sự nhũng lạm của quan lại các cấp. Ông mong mỏi Trịnh Giang làm cho: "Cái cửa tà vọng cong queo vĩnh viễn đóng lại, con đường công bằng trong sạch được đi lại thong dong." Quan và lại đặt ra quá nhiều: "Dân ít quan nhiều chẳng khỏi nhũng tệ". Vì vậy cần phải: "Liệu việc bổ quan, xem đất mà chia trị", phải giảm viên chức thừa ở các phiên bằng cách sắp xếp công việc giữa các cơ quan nhà nước, phải chia đặt lại địa phương, phải ngăn ngừa việc cầu cạnh, chạy chọt, lạm bổ, thăng chức quá nhanh, tệ ăn chặn tham nhũng của quan và lại các cấp. 3. Về ruộng đất ông đề nghị: người nào có ruộng tư đủ cày cấp thì không được chia khẩn phần ruộng công, thiếu mới được chia thêm. Nông phu, từ 100 mẫu trở lên là thượng nông phu, từ 100 mẫu trở xuống là thứ nông phu, từ 50 mẫu trở xuống là hạ nông phu. Nhà nước chỉ để cho thượng nông phu 15 mẫu cày cấy, thứ nông phu 10 mẫu, hạ nông phu 5 mẫu, còn thì đem chia cho nông dân cày cấy lấy thóc nộp tô thuế; đề nghị thực hiện trợ canh công điền và tư điền. 4. Về việc học tập, thi cử ông cho rằng: "Đề thi văn cổ phải kiểm tra học lực nông sâu, văn kim hỏi về thời sự phải xét được mưu trí học trò ... làm cho các bậc túc nho thi có thể dễ đỗ mà bọn "nhãi ranh học vẽ" hết lối đánh lộn sòng, thì người thi đỗ ra làm quan mới có kinh luân hữu dạng, các bậc hiền tài cùng tiến thì thế đạo mới phát huy.
5. Ông còn đề nghị một số vấn đề khác như nuôi dưỡng và sử dụng hợp lý các loại binh lính, đối xử công bằng hợp lý giữa ưu binh (lính Thanh Nghệ và nhất binh (lính tứ trấn) không bóc lột công sức, tiền của binh lính, như thường xuyên cử người đi xem xét tình hình dân chúng, cải tổ hệ thống hiến ty, thực hiện đúng hiến chương pháp luật, trừng trị kẻ ác, khuyến khích việc thiện ..v.v...
Tờ khải 10 điều này thực sự là một đề nghị cải cách khá toàn diện. Chế độ của họ Trịnh, sau hai cuộc chiến tranh với con cháu họ Mạc đã bị lật đổ và với họ Nguyễn ở Đàng Trong, đã được củng cố, tiến bộ, đưa xã hội Đàng Ngoài tiến lên trong các đời Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương, những thiếu sót và tiêu cực của chế độ ấy đã bắt đầu bộc lộ là Bùi Sĩ Tiêm đã nhìn thấy đã phê phán. Tuy các kiến nghị giải quyết tình hình của ông có chỗ còn chưa phù hợp (như về ruộng đất, thuế má) nhưng cũng có nhiều điểm tốt, nếu được thực hiện sẽ làm cho xã hội được lành mạnh hơn. Song những nhận xét và kiến nghị của ông đụng chạm đến tất cả mọi tầng lớp xã hội từ nhà chúa đến các quan, đến lại và lính, đến các tầng lớp nông phu giàu có. Trịnh Giang lại là một nhà chúa hôn ám, ưa nịnh, kiêu ngạo. Vì thế tờ khải không được ai ủng hộ, còn Trịnh Giang thì tức giận cách hết quan chức và đuổi ông về quê. Ông về làng mở thư viện, lập trường dạy học. Sĩ phu kính mộ ông có phong thái, tiết tháo lẫm liệt vì nói thẳng mà bị ghét bỏ, có tinh thần dũng cảm mà bị đối xử bất công đã đến theo học rất đông. Trong các học trò ông nhiều người đã trở thành các viên quan có danh vọng. Ông mất dưới thời Trịnh Doanh là một nhà chúa sáng suốt. Hơn nữa những điều ông nói đã ngày càng lộ ra đầy đủ. Trịnh Doanh và triều đình thấy rõ ông là người sáng suốt, trung thực, dám nói thẳng mà bị đối xử bất công, đã truy trả hết chức cũ, tặng hàm tham chính và tước trung tiết hầu, lại cấp ruộng để thờ cúng. Ngày nay, những nhận xét và đề nghị của ông, đặc biệt là về quan lại và học tập, thi cử đời xưa cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:33 am |
| | | | | Chu Văn An - Nhà giáo dục đầu tiên của Việt Nam
Chu Văn An (còn gọi là Chu An) người thôn Văn, Xã Quang Liệt, nay là Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội (quê mẹ. Theo Đăng khoa học bổ dị, từ 14, ông thi đậu Thái học sinh (như tiến sĩ nhưng không ra làm quan. Ông mở trường dạy học trên một cánh đồng tại làng Huỳnh Cung, giáp với thôn Văn. Học trò của ông rất đông, nhiều người thành đạt như Phạm Sư Mạnh, tể tướng đời Trần Dụ Tông, Lê Bá Quát làm thượng thư. Ông dạy học rất nghiêm, lấy mình làm gương mẫu cho học trò noi theo. Tể tướng Phạm Sư Mạnh, Thượng thư Lê Bá Quát, những khi về trường thăm thầy, được thầy khuyên bảo, khen chê đều rất phấn khởi. Tài đức của Chu Văn An đến tai nhà vua. Trần Minh Tông (1300 - 1357) mời ông ra làm tư nghiệp trường Quốc Tử Giám (như phó giám đốc trường đại học) và dạy thái tử học. Thái tử Vượng lúc đó mới khoảng 5 - 6 tuổi. Cho nên ông giảng dạy ở Quốc Tử Giám là chính. 10 tuổi, thái tử Vượng lên ngôi (Trần Hiếu Tông). Vượng mất, Dụ Tông (1336 - 1369) lên nối ngôi khi mới 8 tuổi. Minh Tông vẫn làm Thượng hoàng đến năm 1457 thì mất, chính sự từ đó đổ nát. Dụ Tông trở nên hư đốn, suốt ngày cờ bạc rượu chè. Ông ta thường gọi bọn nhà giàu vào cung đánh bạc; bắt các quan thi uống rượu, ai uống đợc 100 thăng (chén to) thì thưởng cho hai trật; bắt các công chúa, vương hầu phải hát tuồng trong cung v.v... Chu Văn An nhiều lần khuyên can nhưng không đợc. Ông dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần. Dụ Tông không nghe. Ông bèn trả lại áo mũ, từ quan về quê. Chu Văn An ở nhà ít lâu, rồi đi chơi đây đó. Đến vùng Chí Linh, Hải Dương thấy thắng cảnh đẹp, ông liền dựng nhà ở núi Phượng Hoàng, thuộc làng Kiệt Đắc. Ông lấy hiệu là Tiều Ấn và mở trường dạy học, sống một cuộc đời thanh đạm. Sau đó, Dương Nhật Lễ cướp ngôi nhà Trần. Hoàng tử Phủ con Trần Minh Tông đánh tan được bọn Nhật Lễ, lên ngôi (Nghệ Tông). Chu Văn An từ Chí Linh chống gậy ra mừng vua. Trần Nghệ Tông (1320 - 1394) muốn mời ông ra tham dự việc triều chính nhưng ông từ chối. Bà hiến Từ hoàng thái hậu đã nói một câu chí lí: "Người ấy là bậc cao sĩ, thanh thiết, nhà vua không thể bắt làm bầy tôi đợc đâu...". Vua thưởng cho mũ áo, ông nhận và lạy tạ nhưng đem về cho người khác. Ông vui sống với học trò ở núi Phượng Hoàng, rồi mất vào khoảng cuối tháng 11-1370, thọ 78 tuổi (theo Đại Việt sử ký toàn thư. Trong quá trình dạy học, Chu Văn An đã soạn ra bộ Tứ thư thuyết ước. Theo tên sách ta có thể biết đây là tập giáo trình đầu tiên bàn về bốn quyển sách qui định trong chương trình giảng dạy: Đạ học, Trung Dung, Luật Ngữ và Mạnh Tử. Tiếc thay tập giáo trình này đã bị nhà Minh lấy mất. Nếu còn bộ sách, chúng ta sẽ hiểu cụ thể quan điểm của ông. Ở miếu thờ Chu Văn An ở làng Huỳnh Cung còn ghi lời của Bùi Huy Bích (1744 - 1802) có đoạn, tạm dịch: Kính nghĩa phu tử, tinh thông về lý học, khi ra đời (xuất thế cũng vì Lễ, khi ở ẩn (thoái ẩn) cũng vì nghĩa. Những học trò của ngài đã đem bày tỏ rõ ràng được đạo Nho, chống lại tà thuyết, gạt bỏ mê tín. Phong thái và ảnh hưởng của ngài dù đến trăm năm sau cũng cảm thấy như chính mình đang ở gần ngài. Trong Kinh thi, chẳng đã có câu: Núi cao, ngửa trông thấy càng cao, đường lớn càng đi càng thấy xa... Chu Văn An là chủ xướng 4 quan điểm sau: "Cùng lý: bàn cãi cho biết lý lẽ của sự vật. "Chính tâm: luôn luôn giữ lòng mình cho chính, không làm điều gì trái với lương tâm. "Tịch tà: chống lại tà thuyết, những điều nhảm nhí. "Cự bí: đấu tranh vượt mọi khó khăn, chống lại những sự việc làm hại đến nhân tâm. Ở bốn quan điểm này, chúng ta thấy Chu Văn An quan tâm đầy đủ cả hai mặt trí dục và đức dục, học và hành. Chu Văn An là một nhà giáo tài đức trọn vẹn, có đóng góp to lớn với đất nước và đạo học. Có thể coi ông là nhà giáo dục học đầu tiên của Việt Nam vì có nhiều trò giỏi và những công trình biên soạn lớn. Bốn câu thơ sau đây của Đặng Minh Khiêm (nhà vịnh sử đời Lê) có lẽ đã tóm tắt được một phần cuộc đời và con người của ông. Tạm dịch như sau: Sớ thất trảm xong rồi, treo mũ từ quan Trên núi Chí Linh tiên sinh đã vẹn tiết của mình rất thong thả, Phong thái trong sạch và tiết tháo cứng rắn của tiên sinh từ nghìn xa cũng hiếm có Lòng ngưỡng mộ tiên sinh của các sĩ phu ngun ngút như đỉnh núi Thái Sơn. (Giáo dục - Thời đại 20/11/1998) | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:33 am |
| | | | | Đặng Văn Ngữ - Một nhân cách, một tài năng lớn
Anh Ngữ (Giáo sư Đặng Văn Ngữ dành cho chúng tôi cách xưng hô thân thiết đó), hai tiếng thân thương ấy với tất cả lòng yêu quý và tôn kính đối với người thầy đã ra đi vẫn ngân vang mãi trong lòng bao thế hệ học trò. Hơn ba mươi năm qua, tuy ông đã đi vào cõi vĩnh hằng (1-4-1967), nhưng hình ảnh "Anh Ngữ" vẫn còn trong tâm tưởng bao học trò, người thân, bạn bè, đồng chí. Nhân cách và những công trình đồ sộ mà ông để lại luôn in đậm dấu ấn trong tôi. Giáo sư Đặng Văn Ngữ sinh tại Huế ngày 4-4-1910, là con một nhà nho. Tuổi thơ ông chứng kiến ngững ngày dân ta khổ cực dưới ách thực dân. Ước muốn trở thành người thầy thuốc giúp ích cho dân hình thành ngày càng rõ nét ngay từ thuở thiếu thời ấy. Năm 1937, ông tốt nghiệp bác sĩ y khoa. Ngay từ khi đang học đại học, thiên hướng nghiên cứu khoa học nổi trội nơi ông. Ông chấp nhận ở lại trường làm trợ lý chứ không mở phòng mạch tư. Con đường giảng dạy và nghiên cứu khoa học đã mở ra với ông. Lúc đó ông không dư dật gì. Vợ ông vốn là con quan thượng thư của triều đình Huế vậy mà vẫn phải làm bánh gửi bán ở các nhà hàng kiếm thêm tiền phụ giúp chồng. Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng với ông lòng say mê khoa học không hề suy giảm. Chính trong thời gian này ông đã hoàn thành nhiều công trình khoa học, trong đó có công trình điều tra về muỗi A-nô-phen ở Việt Nam làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu về muỗi truyền sốt rét phục vụ chương trình phòng chống sốt rét sau này. Năm 1943, ông sang Nhật Bản tu nghiệp với tư cách phái viên của Trường Đại học Y - Dược khoa Hà Nội. Ở Nhật Bản, năm 1945, sau khi nhà bác học A.Fleming được Giải thưởng Nô-ben vì có công phát hiện ra pê-ni-xi-lin, mở ra kỷ nguyên mới điều trị các bệnh nhiễm trùng, được sự khuyến khích của giáo sư M.Ota, ông đã tìm được một giống nấm tiết ra pê-ni-xi-lin. Kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ chiếm đóng Nhật Bản. Lúc đó ông đang làm việc ở Tô-ki-ô. Ông cùng các bạn lập hội Việt kiều mà ông là chủ tịch, tổ chức biểu tình đòi công nhận nền độc lập ở Việt Nam... Và cũng thời gian này ông tiếp tục tích lũy kiến thức, phương pháp sản xuất pê-ni-xi-lin. Năm 1948, Hiệu trưởng Trường Đại họ Y - Dược khoa Hà Nội ở vùng bị địch tạm chiếm yêu cầu ông trở về và cũng lúc này điều kiện đi Mỹ làm việc rộng mở đối với ông. Nhưng ông đã về nước phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Cuối năm 1949, sau nhiều khó khăn, vất vả ông đã trở về Tổ quốc, có mặt ở chiến khu Việt Bắc. Tất cả tài sản ông đem từ Thái Lan (ông phải chuyển tiếp qua con đường này) về nước chỉ có hai bộ quần áo và ống giống nấm pê-ni-xi-lin với một tấm lòng, một trí tuệ sẵn sàng hiến dâng cho cuộc kháng chiến thắng lợi. Được sự quan tâm, động viên của Bác Hồ, với sự giúp đỡ tích cực của Bộ Y tế, ông bắt tay vào việc cấy nấm sản xuất pê-ni-xi-lin. Có lúc ách tắc tưởng chừng không vượt qua nổi, nhưng một lần nữa ông lại thành công. Nắm pê-ni-xi-lin đã có mặt khắp các chiến trường, cứu bao chiến sĩ, đồng bào khỏi tay tử thần do nhiễm trùng vết thương.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, ông cùng các đồng nghiệp được giao trọng trách phục hồi và phát triển Trường Đại học Y khoa Hà Nội. Giáo sư Đặng Văn Ngữ tham gia giảng dạy ba bộ môn: sinh lý học, sinh vật học và ký sinh trùng học. Ông lại được giao nhiệm vụ nghiên cứu để trở thành Viện sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng. Viện ra đời năm 1957, chỉ hai năm sau khi Tổ chức Y tế thế giới phát động chương trình tiêu diệt sốt rét trên toàn thế giới và ông là viện trưởng đầu tiên cho tới ngày hy sinh tại chiến trường Trị Thiên - Huế khi đang mải mê nghiên cứu về sốt rét. Công trình điều tra toàn diện về sốt rét trước nay chưa ai từng làm và làm một cách cẩn trọng đã tạo cơ sở vững chắc cho công cuộc phòng chống căn bệnh này. Khỏi phải kể nỗi gian lao, vất vả mà ông và các học trò đã trải qua. Hình ảnh Giáo sư Đặng Văn Ngữ lặn lội khắp mọi nơi, nhiều đêm thức trắng vì công việc còn mãi ghi dấu đậm nét ở nhiều người. Ông hy sinh khi những ý tưởng về vác-xin phòng chống sốt rét còn đang nung nấu trong lòng. Ông đã được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động. Giải thưởng Hồ Chí Minh về hai công trình chế dung dịch pê-ni-xi-lin sử dụng chữa vết thương trong kháng chiến chống Pháp và điều tra về muỗi sốt rét ở Việt Nam mà Nhà nước truy tặng là sự ghi nhận những đóng góp to lớn của ông. Nhưng cũng quý giá biết bao là hình ảnh của ông, tấm gương sáng mà những người học trò dù trực tiếp được nghe những lời dạy bảo ân cần, thấm đậm tình người cũng như các thế hệ tiếp sau ngưỡng mộ với tất cả lòng thành kính. Chúng tôi, những học trò của ông vẫn nhớ như in trong lòng, với những bài giảng của mình không chỉ là sự uyên thâm về trí tuệ mà ông còn truyền ngọn lửa nhiệt tình, sự tận tâm với công việc, với học trò...
Bức tượng ông mới đây đã được dựng tại Viện sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng. Ở Hà Nội, Huế, TP. Hồ Chí Minh, đều đã có đường phố mang tên ông. Và chúng tôi những người học trò đi sau nhớ mãi về ông. Xin được thắp nén hương thơm dâng lên người thầy sáng ngời một nhân cách, một trí tuệ Việt Nam, rất gần gũi và thân thương. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:33 am |
| | | | | Hải Thượng Lãn Ông (1724 - 1791)
- Ông tên thật là Lê Hữu Trác, danh y đời vua Lê Hiển Tông vào cuối thế kỷ thứ 18, sinh ngày 27/12/1724 tại thôn Liêu Xá huyện Đường Hào phủ Thượng Hồng tỉnh Hải Dương (nay là thôn Thanh Xá, huyện Yên Mỹ, Hải Dương), mất ngày 17/2/1791 tại Hương Sơn, Hà Tĩnh (đời Quang trung năm thứ 4). Tên hiệu Hải Thượng Lãng Ông, có nhiều người diễn giải là: - Hải: có lẽ là tỉnh Hải Dương; - Thượng: Là tên phủ Thượng Hồng; - Lãn Ông: ông già lười.Thuở nhỏ, ông theo cha lên Thăng Long theo học trường Quốc Tử Giám. Vì gia đình từ ông nội, chú bác đến cha ông đều làm quan to trong triều đại nhà Hậu Lê. Năm ông lên 15 tuổi đã thông minh, tạo văn chương thi phú. - Ông thi đỗ Hương Cống nhưng lại theo phục vụ nhà chúa Trịnh Sâm (Thời Hậu Lê, đất nước vừa có vua vừa có chúa, chúa Trịnh ở đàng ngoài còn chúa Nguyễn ở đàng trong). Sau một thời gian ông chán cảnh phong kiến suy đồi nhà chúa Trịnh, cảnh mua quan tiến chức của triều đình nhà Lê. Nên khi nghe tin mẹ mất ông xin lui hẳn về quê.Ông về quê mẹ ở xã Tĩnh Diễm, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh học thêm nghề thuốc và trở thành bậc danh y với gần 30 năm lăn lộn với nghề. Từ đó ông lấy hiệu là Hải Thượng Lãn Ông. Hải Thượng Lãn Ông tinh thông các cách dùng thuốc Nam để trị bệnh, đã kế thừa 496 bài phú dùng thuốc của Tuệ Tĩnh đưa vào các bộ sách y dược như Lĩnh Nam bản thảo, Hành giản trân nhu, Bách gian trân tàng, Vệ sinh yếu huyệt. Nhưng bộ sách quý là Y Tông Tâm Lĩnh của ông được biên soạn trong 40 năm mới hoàn thành, gồm 28 tập chia thành 66 quyển được coi là tiêu biểu cho sự nghiệp lương y của Hải Thượng Lãn Ông (sau này được in lại dưới tên Tân Huệ Hải Thượng Y Tâm Lĩnh Dương An Toàn Trạch vào năm 1866). Ngoài ra, về sáng tác văn học, Hải Thượng Lãn Ông có tập Thượng Kinh Ký Sự nói về cuộc hành trình ra Thăng Long của ông để chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. - Người đời sau đánh giá công lao của Hải Thượng Lãn Ông không kém một Lý Thời Trân của Trung Quốc - một nhà y học thời Minh Triều (1518 - 1593) có bộ sách y dược đồ sộ là Bản thảo cương mục - nổi tiếng khắp thế giới (lời của học giả Trương Tú Dân, khi giới thiệu quyển Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, Bắc Kinh đồ thư quán ấn hành năm 1963). | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:34 am |
| | | | | Nhà điêu khắc Diệp Minh Châu
Diệp Minh Châu đã viết trong hồi ký của mình: "Bác là chủ đề bất tuyệt cho tất thảy nghệ sĩ chúng tôi". Có rất nhiều nghệ sĩ dành trọn cuộc đời sáng tác của mình cho một đề tài. Ở Việt Nam, không ít họa sĩ, nhà điêu khắc say mê với hình tượng Bác Hồ, mà Diệp Minh Châu chỉ là một, nhưng ông được coi là người thành công nhất. Giải thưởng Hồ Chí Minh là sự ghi nhận những thành công ấy. Diệp Minh Châu là nhà điêu khắc thuộc thế hệ đầu tiên của nền điêu khắc cách mạng, nền điêu khắc hiện đại Việt Nam, ông cũng là nhà điêu khắc duy nhất được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý đợt một. Diệp Minh Châu sinh ngày10-2-1919 tại Nhơn Thạnh (Bến Tre). Ông ham vẽ từ ngày đi học, bài tập vẽ bao giờ cũng đạt điểm cao và được các bạn gán cho biệt danh "Châu vẽ". Một chút tài hoa bộc lộ những năm tháng tuổi nhỏ: vẽ chân dung các nghệ sĩ khi đi theo các gánh hát, hay những bức phong cảnh vẽ theo óc tưởng tượng, là cơ sở đầu tiên để ông nuôi hoài bão đến với nghệ thuật. Lặn lội qua bao nhiêu khó khăn, Diệp Minh Châu tìm cách ra Hà Nội để vào học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, khóa XIV (1940 - 1945), khóa cuối cùng trứơc khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ. Trường Mỹ thuật mở lối cho Diệp Minh Châu đến với nghệ thuật, rồi từ nghệ thuật, ông đến với cách mạng. Diệp Minh Châu tham gia đội truyền bá quốc ngữ, ngày càng thấy rõ hơn nỗi lầm than của dân chúng, ngày càng hiểu ra rằng chỉ có cách mạng mới đem lại cho đất nước một cuộc sống mới, và chỉ có Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ duy nhất làm được điều ấy Trở về Bến Tre sau năm 1945, tiếng súng giặc Pháp vang lên khắp các tỉnh miền Nam, chứng kiến những tội ác của chúng đối với đồng bào. Diệp Minh Châu viết trong hồi ký: "Hận dân tộc dâng cao trong tôi, tôi vào nhà xếp bút màu gửi má tôi cất giùm, tôi xé giấy thông hành, giấy thuế thân rồi đi lãnh mọi công tác mà cách mạng giao phó". Những ngày ở chiến khu Đồng Tháp và rừng U Minh, tham gia mặt trận với các chiến sĩ, Diệp Minh Châu là chiến sĩ - họa sĩ thực thụ. Chỉ trong vòng hai năm, ông vẽ hàng trăm tranh từ mặt trận khói lửa và bày tới gần 20 phòng tranh ở chiến khu. Bức tranh chích máu từ tay mình "Bác Hồ và 3 thiếu nhi Trung Nam Bắc" vẽ trên lụa năm 1947 bày tỏ ước vọng mong muốn hòa bình thống nhất đến da diết và lòng kính yêu vô cùng với Bác Hồ. Bức tranh đã làm Diệp Minh Châu nổi tiếng. Ông đi dự Hội nghị sinh viên quốc tế ở Pra-ha (Tiệp Khắc), sau đó được về Việt Bắc, được ở gần Bác Hồ sáu tháng ròng. Ông coi đây là dịp lớn nhất của mình. Hơn 30 bức tranh Diệp Minh Châu vẽ Bác ở chiến khu là những kỷ niệm suốt đời không quên về Bác. Rời chiến khu Việt Bắc năm 1952, Diệp Minh Châu sang học tại Viện Hàn lâm Mỹ thuật Tiệp Khắc. Ông chọn điêu khắc vì nghĩ đến những tượng đài sẽ được xây dựng ở Việt Nam khi nước nhà thống nhất. Năm 1956, ông về làm giảng viên trường Mỹ thuật Việt Nam cho đến ngày miền nam hoàn toàn giải phóng năm 1975. Là một người con Nam Bộ, sống trên đất Bắc, không trực tiếp cầm súng giải phóng quê hương, Diệp Minh Châu dồn hết tấm lòng của mình vào tác phẩm: "Người mẹ Việt Nam", "Võ Thị Sáu", "Phú Lợi căm thù", "Được sống", "Hương sen"... là những tác phẩm điêu khắc giàu khả năng tạo hình, chín về cảm xúc, được coi là mẫu mực sáng tác điêu khắc của một thời. Nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là những tượng đài Diệp Minh Châu thể hiện hình tượng Bác. Luôn tâm niệm với mình phải thể hiện hình Bác sao cho thật đẹp cả về tầm vóc và tâm hồn,: "Bác có tất cả những nét đẹp cao cả về nhân đạo, lòng hy sinh cho dân tộc, cho thế giới...", Diệp Minh Châu đã làm rất nhiều tượng Bác. Ông đã vừa khóc vừa làm suốt ngày đêm một tượng lớn trong phòng mình ngày nghe tin Bác mất, năm 1969. Bức tượng tròn thạch cao "Bác Hồ bên suối Lê-nin" và tượng ngoài trời bằng đồng "Bác Hồ với thiếu nhi" - đặt trước vườn hoa trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh - là những tác phẩm điêu khắc để đời của Diệp Minh Châu. "Bác Hồ với thiếu nhi" với phong cách hiện thực mà hàn lâm, hiện đại, phù hợp với môi trường kiến trúc xung quanh, là một trong những tượng đài thành công vào loại nhất ở Việt Nam. Bức tượng làm người ta nhớ đến tác phẩm Diệp Minh Châu vẽ bằng máu tay mình năm 1947. Một chủ đề đi suốt cả đời người cũng như một tấm lòng suốt đời hướng về Bác Hồ, đất nước, dân tộc. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:34 am |
| | | | | Hoàng Như Tiếp - Kiến trúc sư và hoài bão
Công tác quy hoạch đô thị và điểm dân cư có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đảng và Nhà nước chăm lo công việc này từ trong kháng chiến chống Pháp. Khi hòa bình lập lại trên nửa phần đất nước (1954), Bộ Kiến trúc (nay là Bộ Xây dựng) đã thành lập cơ quan nghiên cứu quy hoạch, và đến năm 1962 Viện thiết kế quy hoạch (nay là Viện thiết kế quy hoạch đô thị - nông thôn) ra đời. Kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp được Nhà nước cử làm người lãnh đạo đầu tiên của Viện. Từ buổi bình minh của ngành kiến trúc non trẻ của nước Việt Nam mới, tại căn cứ địa Việt Bắc (1948), Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam - tiền thân của Hội Kiến trúc sư Việt Nam ngày nay - được thành lập, và kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp được đồng nghiệp bầu làm Tổng thư ký đầu tiên. Liên tục hơn 30 năm cho tới khi trút hơi thở cuối cùng vào năm 1982 ông luôn được giới nghề tôn vinh và giao ông đảm nhiệm vai trò người đứng đầu. Cuộc đời ông gắn liền với sự trưởng thành của tổ chức Hội Kiến trúc sư Việt Nam - từ hơn 10 hội viên thành lập cho đến nay đã có hàng ngàn hội viên hoạt động trên khắp mọi miền của Tổ quốc. Với tầm nhìn sâu rộng và từ kinh nghiệm trong thực tiễn, ông viết cuốn sách "Quan hệ giữa quy hoạch vùng lãnh thổ và quy hoạch xây dựng đô thị". Ông đã đề cập khá toàn diện các vấn đề của quy hoạch trên các mặt lý luận cũng như bài học thực tế ở trong và ngoài nước. Tâm huyết của ông đã được bộc lộ rõ nét ở các phần kết thúc, trong đó ông đã trình bày tường tận về các vấn đề rất quan trọng mà ông coi là các "điều lệnh của ngành quy hoạch" và cho đến nay vẫn đang có tính thời sự nóng hổi. Ông lý giải: "Cho rằng các vấn đề nêu ra trong lời kết thúc này là những điều lệnh là vì trong thực tế ở nước nào cũng vậy, nếu các nhà kế hoạch, các nhà quy hoạch, các kiến trúc sư và những người chỉ đạo xây dựng và quản lý đô thị không chăm lo thực hiện đầy đủ các hiệu lệnh của ngành quy hoạch trong khi làm nhiệm vụ thì khó tránh khỏi làm thiệt hại đến nền kinh tế quốc dân, đến nền văn hóa và kiến trúc của đất nước. Chính là họ (cố nhiên không chỉ riêng họ phải chịu trách nhiệm về điều kiện sống thấp kém của nhân dân lao động thành thị và nông thôn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sinh hoạt văn hóa và tinh thần, vì vậy mà tác động tiêu cực không nhỏ tới sản xuất và đời sống xã hội. Trái lại, nếu các nhà kế hoạch, các nhà quy hoạch, các kiến trúc sư và các nhà chỉ đạo xây dựng và quản lý đô thị ra sức thực hiện nghiêm túc các điều lệnh của ngành quy hoạch thì công tác này sẽ phát triển thuận lợi, các đồ án quy hoạch sẽ phát huy được tác dụng, không những khắc phục được thiệt hại trong sản xuất và đời sống mà còn làm cho bộ mặt đất nước tươi đẹp hẳn lên". Trong nhận thức của mình, Hoàng Như Tiếp không có sự phân biệt về mức độ quan trọng giữa kiến trúc đô thị và kiến trúc nông thôn. Ông đã viết tập sách "Kiến trúc nông thôn". Kiến trúc theo nghĩa rộng bởi tập sách này gồm nhiều chương, trong đó có các tiêu đề: Vẻ đẹp toàn cảnh của kiến trúc nông thôn, Kết cấu làng kiểu mới, Nhà sản xuất, nhà ở, nhà công cộng ở nông thôn và Tam Thiên Mẫu, một vùng nhỏ trên châu thổ sông Hồng. Hơn 30 năm đã qua đi nhưng tâm hồn Hoàng Như Tiếp vẫn còn đọng lại trên các trang viết phản ánh ước mong làm cho cuộc sống của bà con nông dân giàu đẹp thông qua các giải pháp kiến trúc quy hoạch lồng ghép với nền kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật. Ngày đất nước thống nhất ước mong trên của ông lại được thể hiện trên các trang viết của tập sách "Từ Tam Thiên Mẫu trên châu thổ sông Hồng đến các địa bàn tỉnh, huyện trên đồng bằng sông Cửu Long". Vậy là kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp hằng ôm ấp một hoài bão: đem nghề của mình góp phần làm giàu nông thôn Việt Nam, làm thay đổi cuộc sống đi đến tốt đẹp hơn cho mọi người. Phải chăng vì thế, ngay sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1932), ông đã cùng người bạn đồng môn gần gũi - kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện - cống hiến cho đời kiểu "Nhà ánh sáng". Ông sinh trưởng tại Huế (1910) song ông yêu mến tất cả những miền quê của Tổ quốc như yêu chính quê hương mình. Hoàng Như Tiếp không chỉ là nhà quy hoạch, ông còn là tác giả của nhiều công trình kiến trúc. Ông đã sáng tác và thực hiện xây dựng nhiều nhà ở, biệt thự, cửa hàng, bảo tàng... tại Hà Nội và một số tỉnh thành. Một trong những công trình đặc sắc không bao giờ rơi vào quên lãng mặc dù không bao giờ thấy lại, đó là khu nhà của Đại hội lần thứ II của Đảng tại Việt Bắc. Ông thiết kế và trực tiếp hướng dẫn xây cất các công trình này. Những ngôi nhà gỗ và tranh tre nứa lá thật duyên dáng mang đậm bản sắc dân tộc quê hương. Hoàng Như Tiếp đã rất tinh tường khi xử lý kiến trúc, từ bố cục tổng mặt bằng đến kiểu dáng từng ngôi nhà với chức năng sử dụng riêng rẽ, tất thảy đều có bàn tay kiến trúc, ông không quên cả những chi tiết nhỏ như dùng gỗ tre nứa bọc viền các bậc lên xuống vốn là đất núi, ông đã tận dụng lá cau, lá cọ lá dừa và song mây tre trúc tạo ra những cổng chào, những vòm cửa đi và cửa sổ rất trữ tình. Ông và đồng đội đảm nhiệm cả việc trang trí về tiện nghi nội thất cho tất cả các phòng họp, nơi biểu diễn và nhà ăn, nhà nghỉ, hoàn cảnh bấy giờ không có véc-ni cũng không có sơn, vậy mà đồ gỗ, đồ song mây tre vầu của nhóm ông sáng tác đã khiến quan khách rất đỗi ngạc nhiên và thán phục. Vượt lên hết thảy và điều thành công lớn của khu công trình Đại hội Đảng là tất cả các ngôi nhà cách suối không mấy bước chân, rất thích dụng mà cũng rất nên thơ. Ông lãng mạn nên kiến trúc cũng mang hồn ông. Một trong những tác phẩm sáng giá của Hoàng Như Tiếp là Bảo tàng Việt Bắc nay là Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Thái Nguyên được xây dựng vào những năm đầu của thập niên 60. Bảo tàng xây dựng trên một đồi thấp gồm hai tòa nhà lớn với đường nét kiến trúc nền nã khiêm nhường, rất thuận với cái nhìn của công chúng, gần gũi với đồng bào miền núi. Một trong những nét ưu việt của giải pháp kiến trúc Bảo tàng là tổ chức không gian thoáng rộng tạo ra sự thuận tiện khi lắp dựng các vách tường ngăn phù hợp với yêu cầu bài trí triển lãm. Liên hệ giữa 2 tòa nhà bởi những dãy hành lang có mái vượt qua một sân rộng. Đây là ý tưởng đẹp của Hoàng Như Tiếp về việc khai thác kiến trúc truyền thống. Sân trong của công trình bảo tàng có mặt nước với núi non bộ cùng nhiều hoa thơm cỏ lạ. Từ sân trong nhìn qua những vòm cuốn của các dãy hành lang thấy cả một miền núi non sông nước của Việt Bắc | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:35 am |
| | | | | Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958) - Nhà văn đi đầu phản ảnh hiện thực xã hội thực dân phong kiến
Hồ Biểu Chánh tên thật Hồ Văn Trung, sinh ngày 1-10-1885 tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, nay là Tiền Giang, xuất thân ký lục, thông ngôn, thăng dần đến chủ quận, rồi tỉnh trưởng (đốc phủ sứ; nổi tiếng thanh liêm, thương yêu dân nghèo, giúp đỡ kẻ cùng khổ; mất ngày 4-11-1958 tại Phú Nhuận, TP.Hồ Chí Minh; để lại cho đời tổng cộng 131 tác phẩm đủ loại từ tiểu thuyết, phê bình, nghiên cứu, tuồng hát đến tình sử Trung Hoa, kim cổ kỳ quan... Những năm đầu thế kỷ, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã đi sâu vào lòng người đọc đủ mọi trình độ, đông đảo nhất là tầng lớp quần chúng tay lấm chân bùn ở nông thôn và giới thợ thuyền bình dân ở thành thị. Người ta đọc ông, say mê đọc ông, ngay từ trong sách quảng cáo của những nhà thuốc "Nhị Thiên Đường", "Thiên Hòa Đường", "Đại Quang"... Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không những phổ biến cùng khắp miền Nam, mà ngay cả giới văn học nghệ thuật miền Bắc hồi đó vẫn kiêng nể ngòi bút ông, xem ông như là nhà viết tiểu thuyết đầu tiên và sung sức nhất với đầy đủ phong cách hào phóng, ngôn ngữ đặc thù, mang trọn vẹn tính chất người Nam Bộ trung thực, hiền lành và chất phác. Trong khi ở miền Bắc, tiểu thuyết "Tố Tâm" (1925) của Song An Hoàng Ngọc Phách mang đầy tính lãng mạn, thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ở miền Nam lại sớm đi vào dòng văn học phản ánh hiện thực, mô tả và lột trần hiện trạng xã hội lầm than, cơ cực thời đó. Nghèo đói, rách rưới, bất công và áp bức luôn đeo bám từng tác phẩm ông. Dù đứng trên góc độ nào, người ta vẫn phải nhìn nhận Hồ Biểu Chánh là một nhà văn được lòng độc giả. Bởi vì, trước hết, nội dung tác phẩm ông rất gần gũi với đời thường. Ông dựa vào thực trạng xã hội để sáng tác. Trong tác phẩm ông, người ta thấy có đầy đủ những "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Đó là "đạo đức" vượt không gian và thời gian của dân tộc Việt Nam vốn có bốn ngàn năm văn hiến. Tuy bị hạn chế trong việc lấy tác phẩm nước ngoài để phóng tác thành tác phẩm mình, ông vẫn luôn giữ được sắc thái, bản chất và phong cách Việt Nam. Ông dẫn dắt người đọc và gợi lại cho họ những cảnh nước đọng, bùn lầy ở nông thôn miền Tây Nam Bộ cũng như cảnh rừng rú còn hoang dã với đầy dẫy hùm beo, muông thú buổi sơ khai. Ông đã diễn tả trung thực phong cảnh từng vùng đất ông có dịp đi qua. Ông thể hiện rành rọt phong tục tập quán cũng như ngôn ngữ địa phương một cách chính xác. Đọc ông, người ta như thấy lại hoàn toàn bối cảnh xã hội chậm tiến xa xa của cả một vùng đất Nam Bộ từ thành thị đến thôn quê với âm vang tiếng còi tàu súp-lê, tiếng chèo khua nước, tiếng chim kêu vượn hú, tiếng ngựa chạy bon bon, tiếng xe bò lạch cạch, tiếng muỗi mòng vo ve... từ Cà Mau, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cần Thơ đến Sài Gòn, Thủ Đức, Biên Hòa... Người đọc cũng bắt gặp ở tác phẩm ông sắc thái quê mùa, thô kệch, chất phác, nhân hậu của nhân dân Nam Bộ thuở còn chịu nhiều hủ tục. Một cách khái quát hơn, trong bộ toàn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, cuốn nào cũng có cốt chuyện hẳn hoi với đầy đủ thế thái nhân tình, được diễn tả bằng một giọng văn mộc mạc, hiền hòa, đôi khi ngô nghê như câu nói của người ít học, hay không học. Cốt lõi của tiểu thuyết ông, bao giờ cũng là sự tranh chấp giữa thiện và ác. Có người cho rằng tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là thứ tiểu thuyết ru ngủ, không phản ánh hiện thực xã hội. Chắc chắn Hồ Biểu Chánh viết ra không phải để ru ngủ người đọc. Hơn thế nữa, ngòi bút ông đã từng mô tả sâu sát nỗi đau của người phụ nữ bị ràng buộc trong lễ giáo khắt khe, từng xót xa với cảnh đời đen bạc và tráo trở luôn đè bẹp trên đầu trên cổ những anh tá điền, cùng những kẻ cùng đinh mạt vận, nghèo đói, rách rưới, lang thang bị đời khinh rẻ một cách bất công như trường hợp nhân vật Lê Văn Đó trong "Ngọn cỏ gió đùa", chỉ vì gia đình đói khổ, chờ chết, buộc phải "ăn trộm" một nồi cháo heo để rồi bị kết án tổng cộng trước sau đến 20 năm tù oan ức. Tất cả những điều vừa kể, há chẳng phải là phản ánh hiện thực xã hội nhung nhúc dòi bọ, đầy dẫy bất công, áp bức, chén cơm pha mồ hôi sôi nước mắt của người lao động tay lấm chân bùn hay sao? Điều cần nhấn mạnh là đa số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, cho tới ngày nay, không những còn được ưa chuộng bởi người lớn tuổi, mà ngay cả thanh, thiếu niên, sinh viên học sinh cũng tìm đọc để nhìn thấy trong đó những phong tục, tập quán, ngôn ngữ, phong cách người xưa như thế nào, nhất là nguồn đạo lý và lễ giáo thời ấy dạy dỗ con người những điều gì... Trong những sách nghiên cứu về văn chương Việt Nam tiền bán thế kỷ 20, người ta đã xem Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn hàng đầu đóng góp nhiều công sức tài bồi nền móng cho giai đoạn xây dựng chữ quốc ngữ. Nhà văn Trần Bạch Đằng trong một bài đăng trên Văn nghệ TP.HCM năm 1988 nhận xét: "... càng lâu về sau, ông càng trở thành nhà văn cổ điển của nền văn học Việt Nam... Chúng ta tự hào đất nước có nhà văn Hồ Biểu Chánh". | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:35 am |
| | | | | Hồ Đắc Di, Nhà y học - Triết nhân
Giáo sư Hồ Đắc Di sinh năm Canh Tý (1900) trong một danh gia vọng tộc ở cố đô Huế, một dòng họ có tới năm nàng dâu là công chúa và số thượng thư, tổng đốc khó đếm hết. Điều diệu kỳ của cách mạng Việt Nam là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã cảm hóa được nhiều người trong dòng họ ấy vui lòng từ bỏ cuộc sống "ô-tô, nhà lầu" ở nơi đô thành đầy đủ tiện nghi, lên đường đi kháng chiến, "bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" với đồng bào, chiến sĩ giữa rừng sâu... Năm 1918, khi chiến tranh thế giới thứ nhất vừa kết thúc, mìn ở Địa Trung Hải còn chưa quét hết, anh thanh niên họ Hồ Đắc lên đường sang Pa-ri du học. Ở Pháp lúc ấy có không ít người Việt Nam. Tám yêu sách Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hòa hội Véc-xây năm 1919 gây tiếng vang rất lớn. Anh sinh viên Hồ Đắc Di thường lui tới Câu lạc bộ sinh viên An Nam ở số nhà 15 phố Xom-mơ-ra, khu La-tinh, Pa-ri. Tại đây, anh được gặp những nhà yêu nước nổi tiếng: Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc. "Năm 1919, mặc dù hoàn toàn chưa có môt ý niệm gì về cách mạng Việt Nam - sau này, Giáo sư Hồ Đắc Di kể lại - nhưng tôi vẫn thầm cảm phục hành động yêu nước nồng nhiệt và lòng quả cảm vô song của ông Nguyễn Ái Quốc. Năm 1945, khi được biết Việt Minh là do ông Nguyễn sáng lập (qua một tờ truyền đơn ai đó lùa qua khe cửa), tôi yên tâm: Chính nghĩa đây rồi! Độc lập, tự do đây rồi! Và khi được thấy con người mảnh khảnh năm xưa lui tới số nhà 15 phố Xom-mơ-ra nay tóc đã điểm bạc, lưa thưa chòm râu cằm, rất cao giọng xứ Nghệ Tuyên ngôn Độc lập, thì niềm tin của tôi càng thêm vững chắc". Cách mạng Tháng Tám thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy giao cho Giáo sư Hồ Đắc Di (người Việt Nam duy nhất được phong học hàm giáo sư đại học từ thời thuộc Pháp) nhiều trọng trách: Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội, Tổng thanh tra y tế, Tổng Giám đốc Đại học vụ và Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Ông hăm hở lao vào công việc. Nhưng chẳng được bao lâu... Chiều 17-12-1946, mổ xong một ca, đang rửa tay, thay áo, ông nhận được lệnh trên: "Tình hình hết sức nghiêm trọng. Phải rời ngay Hà Nội!". Băn khoăn, lo lắng, nhưng ông nhất quyết ra đi... Một tháng sau, Trường Y lại tiếp tục giảng dạy trong nhà đồng bào ở Vân Đình. Địch đánh ra Vân Đình, trường chuyển lên Việt Bắc, dừng lại ở Tuyên Quang một thời gian, rồi ngược Chiêm Hóa. Ngày 6-10-1947, Trường Đại học Y kháng chiến làm lễ khai giảng năm học mới. Ngay hôm sau, 7-10-1947, Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc. Chúng đốt Bệnh viện thực hành của Trường Y bên làng ải, giết một bệnh nhân và đốt luôn ngôi nhà sàn của Giáo sư Tôn Thất Tùng bên đó. Thầy và trò phải vượt ngòi Quẵng, lánh sang làng Bình, rồi ẩn náu vào rừng sâu hơn hai tháng. Gần 50 năm đã trôi qua, ngày nay ngồi đọc lại những bài viết của Giáo sư Hồ Đắc Di trong những năm ở Việt Bắc, chúng ta không khỏi cảm phục tầm mắt xa rộng và cái nhìn già giặn, sáng suốt đối với sự nghiệp giáo dục đại học và ngành y. Ngay từ năm 1947, Giáo sư Di đã chỉ rõ: "Trường Đại học là một cộng đồng, trong đó thầy và trò cùng có chung một niềm khát khao học hỏi, qua tự do trao đổi ý kiến để đạt tới chân lý, để thấu hiểu một cách đúng đắn giá trị của sức mạnh trí tuệ. Đó chính là bí quyết của tinh thần đại học (...). Trong lao động tập thể, trong không khí thân mật, ấm cúng, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau giữa thầy và trò, óc phê phán khoa học, đóa hoa đẹp nhất của trí tuệ con người, sẽ có đất để phát huy, nở rộ". Đó là mối quan hệ thầy trò hoàn toàn mới, theo tinh thần dân chủ, khoa học và nhân bản. Giáo sư Di sớm cho rằng trường đại học "phải vừa là trung tâm giảng dạy, vừa là trung tâm nghiên cứu". Giáo sư viết: "Giảng dạy và nghiên cứu là hai anh em sinh đôi và nhiều khi giảng đường trang nghiêm chỉ là nơi chờ trước khi bước vào phòng thí nghiệm" (Sứ mạng và vai trò trường đại học, 1949). Về sau, Giáo sư nói rõ thêm: "Trường đại học không chỉ là nơi giảng dạy khoa học đã hình thành, mà còn là nơi hình thành khoa học". Chúng ta đều biết Giáo sư Tôn Thất Tùng luôn luôn tự hào về Giáo sư Hồ Đắc Di là "người thầy đầu tiên" của mình. Sau khi đã trở thành viện sĩ của nhiều viện hàn lâm, Giáo sư Tùng viết: "Cụ Hồ Đắc Di thường dạy tôi: Khoa học là sự nổi dậy của tư duy. Đã làm khoa học là phải luôn luôn đặt lại vấn đề. Nếu không, thì chẳng còn gì để tìm kiếm nữa. Và cũng chẳng còn gì để phát minh!" Còn Giáo sư Di thì cho rằng "người thầy giáo nào càng đào tạo được nhiều học trò giỏi hơn mình thì càng hạnh phúc". Giáo sư đòi hỏi các giáo sư đại học "phải phát hiện trong đám sinh viên những người có năng khiếu tìm tòi, rèn luyện cho học óc quan sát, tính tò mò, tinh thần phê phán, khơi gợi ở họ lòng khát khao hiểu biết, bồi dưỡng cho họ trí tưởng tượng (...), vươn lên trên các sự kiện riêng lẻ, làm quen với các quy luật, biết suy luận một cách biện chứng trung thực tuyệt đối trước các sự kiện (sứ mạnh và vai trò trường đại học 1949). Giáo sư Di luôn đề cao y đức. Ông nhấn mạnh nghề thầy thuốc là "nghề không dung thứ bất cứ thứ gì trái đạo đức bởi vì nó liên quan đến cái tinh tế nhất là sự sống của con người". Giáo sư cho rằng "nhờ kết hợp giữa khoa học và văn hóa mà người thầy thuốc trở nên xứng đáng với thiên chức cao quý của mình". Giáo sư thường nhắc các đồng nghiệp trẻ phải trau dồi văn hóa, coi văn hóa là gốc rễ kỹ thuật là ngọn cành, dù thành thạo kỹ thuật đến đâu mà đầu óc nghèo nàn về văn hóa, thì cũng chưa thể gọi là trí thức theo đúng nghĩa của từ này. Nhớ về người thầy của mình, giáo sư Phạm Khuê đã viết vào dịp kỷ niệm 90 năm Trường Y: "Sự nghiệp của cụ Di là sự nghiệp khoa học, cuộc sống của cụ Di là cuộc sống một triết nhân". Giáo sư Hồ Đắc Di được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh một phần do các công trình về "quan điểm, đường lối phương pháp luận đào tạo cán bộ y tế Việt Nam sau 1945..." và phần khác là do công trình biên khảo Sinh học và bệnh học đại cương. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:36 am |
| | | | | Lê Lợi- người khai sáng một triều đại lớn
Lê Lợi (1385-1433) là một trong những nhân vật có công lao lớn nhất đối với lịch sử dân tộc. Ông đã lãnh đạo nhân dân chiến đấu giải phóng đất nước thoát khỏi ách thống trị 20 năm tàn bạo của nhà Minh và khai sáng ra triều Lê, một triều đại lớn. Phan Bội Châu đã tôn Lê Lợi làm Tổ trung hưng thứ hai, sau Tổ trung hưng Ngô Quyền. Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 trong một gia đình hào tưrởng quê ở Kẻ Cham, tức Lam Sơn nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Năm Lê Lợi 21-22 tuổi là lúc quân Minh sang xâm lược nước ta. Phải sống dưới ách thống trị tàn bạo của quân Minh và chứng kiến những cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại bang do các bậc hào kiệt khắp nơi lãnh đạo bị kẻ thù đàn áp khốc liệt, Lê Lợi với lòng yêu nước, thương dân mãnh liệt, đã nuôi chí lớn đánh đuổi quân Minh, giải phóng đất nước. Năm 1416, ông cùng 18 người bạn chung chí hướng làm lễ thề tại Lũng Nhai, quyết tâm đồng cam cộng khổ chống giặc cứu nước. Sau 10 năm kháng chiến gian khổ, anh dũng, Lê Lợi và bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã hoàn thành sự nghiệp vĩ đại là đánh đuổi hết quân Minh ra khỏi bờ cõi, khôi phục nền độc lập hoàn toàn cho đất nước. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế ngày 15/4/1428, lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Kinh, tức Thăng Long (Hà Nội). Với tư cách là người đứng đầu vương triều của một quốc gia có chủ quyền độc lập, Lê Lợi đã có nhiều nỗ lực trong công việc xây dựng chính quyền trung ương tập trung, từ triều đình đến các địa phương. Trong khi xếp đặt hệ thống quan chức các cấp, ngay từ đầu, Lê Lợi đã chú ý tới tiêu chuẩn tuyển chọn ngời là phải dùng người giỏi, tinh thông công việc được giao phó, có đức liêm khiết, ngay thẳng. Trong toå chöùc quaûn lyù ñaát nöôùc, Leâ Lôïi coù yù thöùc ñeà cao luaät phaùp. Ñaàu naêm 1428, luùc cha leân ngoâi vua, Leâ Lôïi ñaõ tuyeân boá vôùi caùc quan laïi raèng: "Töø xöa tôùi nay trò nöôùc phaûi coù luaät phaùp. Ngöôøi khoâng coù pheùp taéc ñeå trò thì loaïn, cho neân ñaët ra phaùp luaät ñeå giaùo duïc quan, daân, bieát phaân bieät thieän, aùc; thieän thì laøm, aùc thì traùnh, khoâng ñöôïc phaïm phaùp". Tuy về phương diện văn hóa, giáo dục, Lê Lợi cha làm được gì nhiều. Song ông cũng đã làm được một số việc đáng ghi nhớ. Ông là người biết tôn trọng và bảo vệ những công trình văn hóa thuộc các triều đại trước. Hai ngày sau khi lên ngai vàng, trong một tờ chiếu chỉ, Lê Lợi đã lệnh cho các địa phương toàn quốc phải bẩm báo về triều đình những lăng tẩm, miếu mạo thờ phụng các bậc vua chúa, công thần có công với nước thời trước, để nhà vua biết và đài thọ phí tổn cho việc tu bổ, trông nom, quét dọn. Đặc biệt, cuối năm 1431, Lê Lợi đã sai biên soạn sách Lam Sơn thực lục, do ông viết bài tựa, ký tên hiệu là Lam Sơn động chủ. Đây là cuốn sách ghi chép một cách chân thực về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Nó trở thành một nguồn tài liệu quan trọng nhất để nghiên cứu về cuộc khởi nghĩa vĩ đại này mà Lê Lợi là chủ tướng. Sau 20 năm bị ngoại bang đô hộ đã để lại cho đất nước những hậu quả xấu về chính trị, kinh tế, xã hội... đòi hỏi vương triều của Lê Lợi phải khắc phục, giải quyết, trong đó có nhiệm vụ trấn áp những âm mưu nổi dậy bạo loạn của một số ngụy quan cũ cấu kết với người Minh. Những mưu toan cát cứ địa phương là mối đe dọa làm nứt vỡ nền thống nhất đất nước. Chính Lê Lợi đã thân cầm quân trèo đèo, lội suối lên Lai Châu để dẹp cuộc phản loạn Đèo Cát Hãn (năm 1431-1432), bảo vệ vững chắc miền biên cương. Khi đánh đèo Cát Hãn, Lê Lợi có viết hai bài thơ khắc trên vách núi Pú Huổi và thác Bờ, nói rõ ý chí thống nhất đất nước, ý chí giữ yên bờ cõi, giang sơn: Bài 1: Sông núi đã vào chung một bản đồ Đề thơ khắc vào đá núi Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta. Bài 2: Ngại gì hiểm trở đường xa Gan già vẫn sắt, lòng già vẫn son Chí này san phẳng núi non Nghĩa này quét sạch ngàn cơn mây mù Biên phòng năm liệu mười lo Sao cho xã tắc muôn thu thái hòa Ba trăm ghềnh thác, băng qua Nay nhìn sông nước hóa ra thuận dòng. Lê Lợi qua đời ngày 5/10/1433, để lại một sự nghiệp bất hủ. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:36 am |
| | | | | Lê Quý Đôn- nhà bác học và nhà thơ
Trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, đồng chí Trường Chinh đã xếp Lê Quý Đôn vào hàng những nhân tài của dân tộc, khẳng định rằng: ’Những thiên tài như thế mãi mãi là những ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam làm vẻ vang cho giống nòi". Nếu nhìn trên bình diện lịch sử văn hóa Việt Nam suốt thời kỳ phong kiến, chúng ta thấy Lê Quý Đôn quả là một thiên tài. Tác phẩm của ông là một khối lượng rất đồ sộ "kể tới mấy trăm thiên" bao gồm các loại triết học, sử học, văn thơ, chú giải kinh điển, tổng loại, tạp biên... Thật hiếm thấy ở một con người lại tập trung nhiều năm lực trí tuệ, thâu tóm được nhiều lĩnh vực tri thức khoa học như Lê Quý Đôn: chính trị, kinh tế, lịch sử, văn thơ, nho học, Phật học, Lão học, địa lý học, nông học, dân tộc học, thư tịch học, ngôn ngữ học, sưu tầm, khảo cứu... Lĩnh vực nào Lê Quý Đôn cũng tỏ ra uyên bác khiến cho người ta phải sửng sốt và khâm phục. Trí thông minh kỳ diệu của Lê Quý Đôn đã đợc người đương thời hết lời ca tụng: hai tuổi đã biết đọc chữ "hữu", chữ "vô". Năm tuổi đã thuộc lòng nhiều bài Kinh Thi. Mười một tuổi ngày học được hàng trăm trang sử. Mười bốn tuổi học hết Ngũ kinh, một ngày làm mười bài phú không cần viết nháp... Lê Quý Đôn là một viên quan đại thần dưới thời Lê- Trịnh. Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn có ảnh hưởng lớn đối với sự nghiệp văn chương của ông. Đó là chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1759-1762. Lúc này Lê Quý Đôn mới 33 tuổi. Theo lệ xa thì phải trên dưới 50 tuổi mới được triều đình chọn cử đi sứ, song vì Lê Quý Đôn có tàu nên vẫn được sung vào đoàn sứ bộ với chức phó sứ. Lê Quý Đôn có tàu nên vẫn được sung vào đoàn sứ bộ với chức phó sứ. Tại Yên Kinh (kinh đô nhà Thanh) Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần Triều Tiên, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng của nhà Thanh, luận bàn với họ những vấn đề sử học, triết học... và học vấn sâu rộng của ông được học giả Trung Quốc, Triều Tiên vô cùng khâm phục. Ở đây, Lê Quý Đôn có dịp đọc nhiều sách mới lạ kể cả sách của người phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữ học, thủy văn học... Lê Quý Đôn sống ở thế kỷ XVIII là thời kỳ xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Trong lòng xã hội Việt Nam đầy mâu thuẫn khi ấy đang nảy sinh những mầm mống mới của thời kỳ kinh tế hành hóa, thị trường trong nước mở rộng, thủ công nghiệp và thương nghiệp có cơ hội phát triển... Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hóa, tư tưởng, khoa học. ở thế kỷXVIII, xuất hiện nhiều tên tuổi rực rỡ như: Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Lê Hữu Trác... Đồng thời các tri thức văn hóa, khoa học của dân tộc được tích lũy hàng nghìn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi có những bộ óc bách khoa và Lê Quý Đôn với học vấn như biển cả của mình đã trở thành người "tập đại thành" mọi trí thức của thời đại. Có thể nói toàn bộ những tri thức cao nhất ở thế kỷ XVIII đều được bao quát vào trong tác phẩm của Lê Quý Đôn. Tác phẩm của ông như một cái mốc lớn đánh dấu thành tựu văn hóa cả một thời đại, với tất cả những ưu điểm cùng nhược điểm của nó. Nếu thống kê lại thì tác phẩm của Lê Quý Đôn có tới 10 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số hiện giờ bị thất lạc chưa tìm thấy. Có thể kể ra những tác phẩm tiêu biểu của ông tới nay còn giữ được: Về triết học có Quần thư khảo biện (sách được làm trước năm ông 30 tuổi). Về tổng loại có Vân đài loại ngữ. Đây là "bộ sách tinh túy nhất" của Lê Quý Đôn được viết xong lúc ông 30 tuổi. Nội dung sách hết sức phong phú, trong đó tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... Về sử học, ngoài Đại Việt thông sử (còn gọi là Lê Triều thông sử và Bắc sứ thông lục (viết trong lần đi sứ. Quốc sử tục biên (mất), Danh thần lục Lê Quý Đôn còn hai tác phẩm đặc sắc là Kiến văn tiểu lục và Phủ biên tạp lục. Kiến văn tiểu lục là tập bút ký của Lê Quý Đôn trong khi tham bác tài liệu sách vở có liên quan tới lịch sử và văn hóa nước ta từ đời Trần tới đời Lê. Phủ biên tạp lục viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm hiệp trấn Thuận Hóa. Nội dung ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về tình hình xã hội Đàng trong từ thế kỷ XVIII trở về trước. Lê Quý Đôn là một nhà bác học lớn, vừa là một nhà văn học, một nhà thơ giàu tài năng. Trong sự nghiệp văn học của Lê Quý Đôn phần nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn là phần có giá trị đặc biệt. Công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Đôn là bộ Toàn Việt thi lục 6 quyển, trong đó tuyển chọn tất cả 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509-1516). Lê Quý Đôn hoàn thành Toàn Việt thi lục năm 1768, dâng lên vua, được thưởng 20 lạng bạc. Với Toàn Việt thi tập, Lê Quý Đôn đã góp phần thu nhặt, gìn giữ khỏi mất mát bao nhiêu châu ngọc quý giá trong kho tàng văn hóa dân tộc. Về sáng tác văn xuôi, Lê Quý Đôn có Quế Đường văn tập 4 quyển nhưng sách này không còn nữa. Thơ Lê Quý Đôn để lại có Quế đường thi tập, khoản vài trăm bài, làm ở trong nước và trong thời gian đi sứ Trung Quốc. Nhận xét tổng quát về thơ Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú viết: "Ông là người học vấn rộng khắp, hạ bút thành văn. Cốt cách thơ đều trong sáng. Lời văn thì hồn nhiên như "thiên thành" không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển rộng, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia". Đọc thơ Lê Quý Đôn, chúng ta thấy thơ ông thật phong phú, đa dạng, sâu sắc về tư tưởng, nghệ thuật: Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm Dây da dây đậu leo quấn xanh tốt Sóng biếc đã rửa sạch hận cho vua Trần Cỏ xanh khó che lấp nỗi hổ thẹn của Mộc Thạnh Sau trận ma bò vàng cầy bật lưỡi gươm cổ Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn Bờ cõi cần gì phải mở rộng mãi Đời Nghiêu Thuấn khi ấy chỉ có chín châu thôi. Hơn 200 năm đã trôi qua nhưng trí tuệ và tâm hồn Lê Quý Đôn vẫn tỏa sáng tới ngày nay. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:37 am |
| | | | | Mạc Đĩnh Chi- Tác giả phú nổi tiếng đời Trần
Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1272, mất năm 1346; ông quê gốc ở làng Lan Khê, huyện Bích Hà, sau dời sang làng Lũng Động, huyện Chí Linh, nay là Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Hưng. Mạc Đĩnh Chi đỗ trạng nguyên năm 1304, đời Trần Anh Tông. Ông làm quan tới chức Tả bộc xạ, tức Thượng thư. Mạc Đĩnh Chi từng được cử đi sứ Trung Quốc và tài năng của ông được triều đình nhà Nguyên rất kính trọng. Khi tuổi già, ông nghỉ hưu và mở trường dạy học. Trong số các nhân vật nổi tiếng thời xa, Mạc Đĩnh Chi có lẽ là một người có nhiều giai thoại nhất được lưu truyền ở đời, đặc biệt là những giai thoại khi ông đi sứ Trung Quốc, trong đó có giai thoại đối đáp văn chương hết sức thú vị. Trong lịch sử văn học Việt Nam, tên tuổi Mạc Đĩnh Chi gắn liền với bài Ngọc tỉnh liên phú. Chúng ta đã biết, phú là một thể tài văn học ra đời rất sớm ở Trung Quốc, phú xuất hiện vào thời Chiến Quốc (năm 403-221 trước CN). Ở Việt Nam, thể tài phú phát triển khá mạnh tuy có muộn so với Trung Quốc, song thành tựu cũng lớn, có nhiều tác phẩm xuất sắc, được hậu thế truyền tụng, như : Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang, Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu... Ngọc tỉnh liên phú được viết trong trường hợp khá đặc biệt. Khi Mạc Đĩnh Chi vào thi, bài thi đáng đỗ trạng nguyên, nhưng vua Trần thấy ông tướng mạo xấu xí nên ngần ngại không muốn lấy đỗ trạng, ông bèn làm bài phú này dâng lên, nội dung phô bày phẩm cách thanh cao ví như hoa sen trong giếng ngọc của mình, và ông đã chinh phục được vua cho đỗ trạng: "Chẳng phải như đào trần lý tục, chẳng phải như trúc cỗi mai gầy. Câu kỷ phòng tăng khó sánh, mẫu đơn đất Lạc nào bì Giậu Đào Lệnh cúc sao ví được, vườn Linh Quân lan xá kể gì! Ấy là giống sen giếng ngọc ở núi Thái Hoa đây. Qua Ngọc tỉnh liên phú, chúng ta thấy Mạc Đĩnh Chi là một nhà văn rất điêu luyện thế phú. Phong điệu, ngôn ngữ phú của Mạc Đĩnh Chi đẹp đẽ, sang trọng, mang dấu ấn riêng cá nhân và dấu ấn chung của phú đời Trần.
**************** Hãy cùng chia sẻ với bạn bè bằng cách **************** | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:37 am |
| | | | | Nam Cao, Nhà văn - Liệt sĩ
Nam Cao Nhà văn - Liệt sĩ Báo Nhân dân 29/4/97 Tiếng súng giặc trên cánh đồng Mưỡu Giáp, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, vùng địch hậu Liên khu III (cũ, ngày 30-11-1951, đã sát hại đoàn cán bộ trên đường công tác, trong đó có nhà văn - chiến sĩ Nam Cao. Tên khai sinh của Nam Cao là Trần Hữu Trí. Ông ở làng Đại Hoàng, nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Xuất thân từ một gia đình bậc trung, Nam Cao được học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, ông được gia đình gửi xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Hoàn cảnh đất nước chìm trong bóng tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp và những sự kiện đấu tranh của nhân dân chống lại kẻ thù lúc ấy tác động mạnh mẽ vào tinh thần yêu nước, tâm hồn đa cảm và trái tim nhân ái của nhà văn tương lai. Nam Cao từng vật lộn kiếm sống và xuất hiện khá sớm trên văn đàn. Ở Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn "Cảnh cuối cùng", "Hai cái xác". Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo ích hữu các truyện ngắn "Nghèo", "Đui mù", "Những cánh hoa tàn", "Một bà hào hiệp" với bút danh Thúy R. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu "văn học lãng mạn" đương thời. Trở ra bắc, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, đường Thụy Khuê, Hà Nội. Phát-xít Nhật vào Đông Dương, trường bị trưng dụng, Nam cao thôi dạy học. Ông đã in truyện ngắn "Cái chết của con Mực" trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt. Năm 1941, tập truyện đầu tay "Đôi lứa xứng đôi" (tên trong bản thảo là "Cái lò gạch cũ") của Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này, khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là "Chí Phèo". Rời Hà Nội, Nam Cao về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Bút lực và tài năng của Nam Cao bước vào độ chín. Nhà văn hiện thực xuất sắc dũng cảm đối mặt với cái ác, cái vô luân, cái nhâng nháo hủ lậu, cái bất công đè lên những người đân thấp cổ bé họng, bị lũ bất lương truyền kiếp đè đầu cỡi cổ. Một thằng lý dịch có thể thẳng tay đánh chết người như bỡn, một tên ác bá có thể cướp trắng tay thớc vườn, mảnh ruộng của người nghèo khó như không. Tầng lớp trí thức nghèo phải bấm bụng trong cảnh "sống mòn", "chết mòn". Vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt, ông là người cầm bút của lương tri và làm thiên chức cao cả của nhà văn. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Năm 1942, in các truyện ngắn "Cái mặt không chơi được", "Nhỏ nhen", "Con mèo", "Những truyện không muốn viết", "Nhìn người ta sung sướng", "Đòn chồng", "Giăng sáng", "Đôi móng giò", "Trẻ con không được ăn thịt chó", "Đón khách". Các truyện thiếu nhi đăng tải trên sách Hoa Mai: "Những trẻ khốn nạn", "Người thợ rèn", "Nụ cười", "Con mèo mắt ngọc", "Ba người bạn". Tháng 4-1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Ông in tập truyện ngắn "Nửa đêm". Viết các truyện ngắn "Mua nhà", "Quái dị", "Từ ngày mẹ chết", "Làm tổ", "Thôi về đi", "Truyện tình", "Mua danh", "Một truyện xú-vơ-nia", "Sao lại thế này?", "Mong ma", "Chuyện buồn giữa đêm vui", "Điếu văn", "Cười", "Quên điều độ", "Xem bó", "Lão Hạc", "Rửa hờn", "Rình trộm", "Nước mắt", "Đời thừa", "Đầu đường xó chợ", "Phiêu lưu", "Lang Rận", "Một đám cưới", "Bẩy bông lúa lép". Ông in truyện dài nhiều kỳ "Truyện người hàng xóm" trên Trung Bắc chủ nhật, viết xong tiểu thuyết "Chết mòn" (sao đổi là "Sống mòn"). Có thể nói, cùng với nhà văn hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, các tác phẩm của Nam Cao thời kỳ 1941-1944 đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của dòng văn học hiện thực Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Và cho đến hôm nay, cứ nhắc đến tên ông, bạn đọc lập tức có thể nhớ, thuộc nhân vật và văn ông. Phải chăng, văn học một khi vượt qua được sự vô vị, nhạt nhẽo, tầm thường thì nó sẽ là thứ "sản phẩm tinh thần" khó băng hoại trong dòng chảy của cuộc sống không ngừng vận động, nó song hành cùng thời gian. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi nhà văn được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương, in truyện ngắn "Mò sâm-banh" trên tạp chí Tiên Phong. Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Ông lên đường tham gia đoàn quân Nam tiến với tư cách phóng viên. Ở Nam Bộ, Nam Cao viết và gửi in truyện ngắn "Nỗi truân chuyên của khách má hồng" trên tạp chí Tiên Phong, in tập truyện ngắn "Cười" ở NXB Minh Đức, in lại tập truyện ngắn "Chí Phèo". Ra bắc, Nam Cao nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nước và Cờ chiến thắng của tỉnh này. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết "Nhật ký ở rừng". Tại chiến khu, Nam Cao gia nhập Đảng. Từ đây, với cảm quan mới, Nam Cao hăng hái tham gia công tác văn hóa, văn nghệ và báo chí cứu quốc, hòa mình vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Khiêm tốn, giản dị, chân thành, nhà văn không nề hà, không ngại khó, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được tổ chức phân công. Các tác phẩm "kịp thời" của ông bắt ngay vào việc tuyên truyền cổ vũ, động viên chiến sĩ, cán bộ đồng bào trong địch hậu, ngoài tiền tuyến, trong đó truyện ngắn "Đôi mắt" được xem như một tuyên ngôn nghệ thuật của nhà văn dứt khoát với cái cũ, hào hứng, tin tưởng trên con đường lớn của dân tộc, của đất nước. Tháng 5-1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu III, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu IV. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu III. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành. Nhưng rồi đoàn thuyền nan đa cán bộ đã lọt vào ổ phục kích của giặc. Nam Cao anh dũng hy sinh trước mũi súng quân thù, ông ngã xuống trên trang bản thảo cuối cùng. Khép lại một đời văn ở tuổi 35, Nam Cao viết truyện đầu lúc ông tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc "Chí Phèo" lúc 24 tuổi, viết tiểu thuyết "Sống mòn" lúc 27 tuổi, viết bài ký "Định mức" phục vụ kháng chiến ở gần phút chót của hành trình. Với 15 năm cầm bút, ông đã kịp để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông, nổi bật một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu lắng, trào lộng, xót xa, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, tinh vi mà khái quát. Ở đây có cả văn chương, có cả tâm huyết, có cả tài năng lớn của một ước vọng nhân văn cao đẹp, nhà văn ký thác với cuộc đời. NSUT Lê Huệ - Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật Hà Nam | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:38 am |
| | | | | Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản
Nguyễn Bá Khoản quê ở làng Liễu Viên, huyện Thường Tín (Hà Tây). Ông sinh ngày 3-7-1917 trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cuối thế kỷ trước, ông nội và bác ruột của Nguyễn Bá Khoản đã có mặt trong phong trào Cần Vương, một người anh của ông tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn bị đày biệt xứ. Cái máy ảnh và cây bút đã tạo thành sự nghiệp của ông. Những năm 1936 - 1939, ông làm phóng viên cho các tờ báo của Đảng như: Tin tức, Bạn Dân... Năm 1939 được tòa soạn phân công đi điều tra nạn tham quan ô lại, ông đã một mình đạp xe đi vòng quanh Đông Dương, vừa đi vừa chụp ảnh. Tháng Tám năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa ở Hà Nội, rồi về lãnh đạo khởi nghĩa ở huyện Thường Tín, sau đó được cử làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời huyện Phú Xuyên. Tháng 11-1945, ông được cử làm Trưởng phái đoàn thanh tra mặt trận Nam Bộ. Sau chín năm kháng chiến, trong đoàn từ Việt Bắc về tiếp quản thủ đô có nhà báo Nguyễn Bá Khoản. Sau đó ông có mặt trên cầu Long Biên chụp những lính thực dân Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội. Nguyễn Bá Khoản là một nghệ sĩ có cái nhìn sắc sảo, ông đã nhanh nhạy ghi được những cảnh, những người vào thời khắc hiếm hoi nhất của lịch sử. Trong những ngày sôi sục khí thế cách mạng, ông chụp cảnh đồng bào Hà Nội mít-tinh ở trước Nhà hát lớn ngày 17-8-1945, cảnh cướp chính quyền ở Bắc Bộ Phủ, lễ mừng đất nước độc lập tại Vườn hoa Ba Đình, một số ảnh nói về hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày đầu của Nhà nước công nông. Tháng 10-1945, khi đồng bào Nam Bộ vừa nổ súng đánh giặc, Nguyễn Bá Khoản đã có mặt ở ga Tuy Hòa ghi lại cảnh đoàn quân Nam tiến đang hành quân vào mặt trận... Như một con thoi, tung hoành khắp trong nam ngoài bắc, khi Hà Nội bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, không ngại hiểm nguy, ông có mặt cùng các chiến sĩ ở những nơi chiến sự diễn ra ác liệt nhất, chụp được hàng trăm tấm ảnh mô tả sinh động cuộc chiến đấu muôn hình muôn vẻ của quân và dân Hà Nội trong những ngày cuối năm 1946. Đó là cảnh hai chiến sĩ sao vuông ôm bom ba càng chờ xe tăng địch ở ngã tư Hàng Đậu, trận chiến đấu giáp lá cà ở phố Hoàng Mai ngày 15-1-1947, hình ảnh ba chú bé liên lạc của Trung đoàn Thủ đô đang xông pha trong lửa đạn. Và thắm thiết biết bao tình cảm của quân và dân được thể hiện qua cảnh các mẹ, các chị làm nhiệm vụ tiếp tế ở mặt trận Voi Phục, đến bữa cơm ăn vội của các chiến sĩ ở mặt trận Cầu Tiên... Nguyễn Bá Khoản tính tình hồn hậu, phóng khoáng, suốt 25 năm làm những công việc hết sức bình sị ở Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội hay khi được biệt phái sang Ủy ban điều tra tội ác của đế quốc Mỹ, ở đâu ông cũng say mê nghệ thuật, dùng chiếc máy ảnh ghi lại hình ảnh những con người đang chiến đấu và sản xuất ở Hà Nội. Suốt đời gắn bó với cách mạng và tận tụy với nghề, sau gần 60 năm cầm máy, Nguyễn Bá Khoản đã để lại cho chúng ta một bộ ảnh hết sức phong phú. Khi xây dựng Bảo tàng cách mạng Việt Nam ông đã hiến bảo tàng 2.000 phim gốc và 700 ảnh. Từ 1991 đến 1993, ông đã gửi vào kho lưu trữ quốc gia 2.000 phim gốc kèm 2.000 ảnh có chú thích. Hiện nay, tại gia đình còn gần 5 vạn phim nữa đang được vợ ông là bà Cao Thị Tuyết bảo quản. Đánh giá đúng mức công lao của nghệ sĩ Nguyễn Bá Khoản, tháng 8-1987, ông được Ban Tổ chức Trung ương ký quyết định công nhận là nhà lão thành cách mạng, được cùng 14 nhà lão thành cách mạng đi nghỉ an dưỡng ở CHDC Đức. Sau đó ông lại được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất. Năm 1991, ở tuổi 75, Nguyễn Bá Khoản tổ chức triển lãm ảnh đầu tiên của đời mình. Hai năm sau ông qua đời. Ngày 10-9-1996, Chủ tịch nước đã ký quyết định tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật cho 5 tác phẩm ảnh của Nguyễn Bá Khoản chụp Bác Hồ và kháng chiến | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:39 am |
| | | | | Nguyễn Dữ và văn học truyền kỳ
- Nguyễn Dữ, tác gi truyện Truyền Kỳ Mạn Lục nổi tiếng sống ở thế kỷ XVI, xuất thân trong gia đình cha đậu tiến sĩ cuối đời Hồng Đức, quê làng Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc, nay là Đỗ Lâm, Tứ Lộc, Hải Dương. Nguyễn Dữ là học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm, đỗ hơng tiến (tức cử nhân), có làm tri huyện một thới gian rồi thôi quan về nhà sống ẩn dật, phụng dưỡng mẹ già và viết sách. Tác phẩm Nguyễn Dữ để lại có Truyền Tỳ Mạn lục, một tác phẩm đợc đánh giá là "thiên cổ kỳ bút". - Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ hiện còn, là một bản trùng san, in năm 1763, có phần dịch ra Nôm và chú thích cẩn thận, với tên gọi Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, gồm 20 truyện. - Tác phẩm Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống văn học nước nhà đương thời cũng như các thế kỷ tiếp sau. Chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đọc và sửa chữa cho tác phẩm này. Nhiều ngời có tiếng tăm đã bình luận, khen ngợi cái hay, cái lạ của bút lực Nguyễn Dữ trong Truyền Kỳ Mạn Lục và nó từng mấy lần được khắc in. Sau Nguyễn Dữ, có Nguyễn Diễn Trai viết Truyền văn tân lục kể về những chuyện lạ của các nhân vật hiển đạt từ thời Lý đến thời Lê, Đoàn Thị Điểm soạn Tục truyền kỳ, tức Truyền ký tân phả, chép các chuyện kinh dị, ly kỳ. - Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự việc kỳ lạ xy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh o, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại. Phải chăng đấy chính là hình ảnh của xã hội Nguyễn Dữ đang sống, một xã hội phong kiến lúc suy yếu, mục nát. - Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, những tình người tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và Nguyễn Dữ đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ. - Trong 20 truyện Nguyễn Dữ viết, truyện nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tởng đạo đức của ông. Đó là những mong muốn của Nguyễn Dữ về một xã hội mọi người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa con ngời với con ngời... Giá trị lớn của tác phẩm Truyền kỳ mạn lục chính là ở những nội dung nhân văn đó. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:39 am |
| | | | | Phạm Ngọc Thạch - người thầy thuốc tận tụy vì dân
Cách đây gần 28 năm, vào lúc 6 giờ 30 phút chiều ngày 7-11-1969, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch mãi mãi nằm xuống ở khu căn cứ cách mạng miền nam giữa rừng Tây Ninh, do viêm phúc mạc mật và sốt rét ác tính. Giáo sư Hồ Đắc Di, một người cao tuổi hơn, lúc bấy giờ là Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội, Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, nói lên nỗi lòng đau xót trước tin dữ bất ngờ: "Anh Phạm Ngọc Thạch đã mất? Cái tin đau buồn ấy ập đến làm tôi bàng hoàng, xúc động tới mức chưa thể tin ngay (...). Mới hôm nào đây thôi, trước lúc anh lên đường đi nam, trong một bữa cơm gia đình rất thân mật, các anh Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước và tôi có dịp trò chuyện cùng anh (...). Khi chia tay, hơi nóng nơi bàn tay anh nắm chặt, thắm tình đồng chí, tôi cứ ngỡ vẫn còn ấm mãi trong bàn tay tôi... Thế là giờ đây anh không còn nữa!". Quá xúc động, nghệ sĩ Diệp Minh Châu làm việc miệt mài trong 72 tiếng đồng hồ, quên ăn quên ngủ, nặn xong bức tượng bán thân anh Tư Thạch để kịp đặt lên bệ đá trong buổi lễ truy điệu của ngành y. Nhà văn Pháp nổi tiếng Giăng Pôn Xác-tơ-rơ gửi điện chia buồn: "Chúng tôi khâm phục và yêu mến nhân cách cao thượng, trí thông minh và lòng tận tụy của ông". Nhà toán học Lô-răng Soác viết: "Thật là một bậc thầy thuốc vĩ đại, một nhà chính trị lớn, một con người giàu lòng nhân ái!". Giáo sư, thạc sĩ Ăng-đơ-rê Rút-xen nói thêm: "Một người hiền cao cả!". Ngay từ trước Cách mạng Tháng Tám, đốc-tờ Thạch đã nổi tiếng giữa chốn Sài Gòn hoa lệ và tính giản dị và lòng thương người. Một đêm, có bà mẹ nghèo ở hẻm nhỏ lâm bệnh bất ngờ. Bác người nhà bối rối đánh liều đến gõ cửa phòng khám của đốc-tờ Thạch. Từ trong chiếc màn con căng trên chiếc ghế vải đặt dưới gốc cây ngoài vườn, một anh thanh niên quần cộc, mình trần chui ra. Bác ta tưởng đâu anh chàng đó là chú bồi giúp việc vặt cho ông đốc-tờ lừng lẫy tiếng tăm. Nào ngờ chỉ một loáng sau, chính "chú bồi" tự mình lái xe hơi vun vút lao đi thăm bệnh... Ở Sài Gòn, anh Tư Thạch nổi tiếng là một "bác sĩ bình dân" luôn luôn vui lòng khám và chữa bệnh không lấy tiền cho các anh, các chị thợ thuyền, phu phen, các bác xích-lô, khuân vác, các anh bán báo, đánh giày... Sau những năm học tập ở Hà Nội và ở nước ngoài, anh trở thành một chuyên gia xuất sắc trong ngành lao, là hội viên duy nhất trong toàn cõi Đông Dương của Hội Nghiên cứu về lao của nước Pháp. Trở lại Sài Gòn, mở phòng khám bệnh ở một đường phố lớn, hoàn toàn có điều kiện để tận hưởng cảnh phú quý, nhưng anh không coi đó là cái chí của "người hành y đạo". Phòng khám của đốc-tờ Thạch không chỉ là nơi chữa chạy các căn bệnh hiểm nghèo cho những người dân lam lũ héo hon, áo cộc, đi guốc mộc, mà còn là chốn lui tới, nghỉ ngơi của những chiến sĩ cách mạng đã từng nếm trải cảnh lao lung tù đày. Anh là người tổ chức phong trào Thanh niên Tiền phong, tập hợp những bạn trẻ có nhiệt huyết sẵn sàng "cùng nhau xông pha lên đàng, kiếm nguồn tươi sáng" quyết chí "không phò nhà Nam"... Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, anh được cử vào UBND Cách mạng lâm thời thành phố Sài Gòn... Năm 1954, một nửa nước ta được giải phóng. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được cử giữ chức Bộ trưởng Y tế kiêm Viện trưởng Viện Chống lao trung ương... Dù hết sức bận rộn công tác tổ chức và lãnh đạo, bác sĩ vận không chịu rời bỏ khoa học, xao lãng chuyên môn. Vắc-xin B.C.G chết là công trình độc đáo của một tập thể thầy thuốc chống lao ở Việt Nam, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng đầu. Không cần tủ lạnh, ai cũng có thể bảo quản và bảo quản được lâu, B.C.G chết có mặt khắp hang cùng ngõ hẻm, miền ngược, miền xuôi. Hàng chục triệu lượt người được tiêm phòng lao bằng loại vắc-xin ấy. Số người mắc bệnh giảm hẳn. Hơn 60 viện nghiên cứu ở 40 nước gửi thư xin bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tài liệu về B.C.G chết. Tạp chí Tubercle của Hội Nghiên cứu về bệnh phổi và bệnh lao ở nước Anh đăng bài giới thiệu công trình B.C.G chết, và nhận xét: "Đối với các nước đang phát triển, phương pháp phòng và chống lao của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là phương pháp tốt nhất". Ông đã dành hơn ba năm trời và biết bao nghị lực cho công trình ấy. Với kinh nghiệm lâm sàng phong phú, với kiến thức chuyên ngành sâu rộng, ông còn nghiên cứu về nhiều dạng bệnh phổi chưa ai nói tới ở nước ta, như: nấm phổi, ký sinh trùng phổi, giãn phế quản khô chảy máu, nhiễm bụi than, bụi si-líc... Cả một chương bệnh lý mới về các bệnh đường thở ở người Việt Nam được mở ra với các công trình tiên phong của ông. Ông cũng là người đầu tiên nghiên cứu việc dùng kích sinh chất Phi-la-tốp tiêm vào các huyệt vị kinh lạc để chữa bệnh lao phổi, kết hợp với việc dùng thuốc kháng sinh. Nhiều phương pháp do ông đề xướng ngày nay không còn được áp dụng nữa. Nhưng trong những năm khó khăn ấy, hàng chục vạn người bệnh đã được ông và các đồng nghiệp của ông chữa khỏi bằng các phương pháp đó. Là một người thầy thuốc cách mạng, căm phẫn sâu sắc những di sản lạc hậu của xã hội cũ, ông hết sức quan tâm đến công tác phòng dịch và tiêu diệt các bệnh xã hội, xây dựng mạng lưới y tế cơ sở, y tế nông thôn. Lịch sử ngành y học nước ta ghi nhận những đóng góp to lớn của vị Bộ trưởng - Anh hùng vào sự nghiệp nhân đạo cao cả ấy. Ông còn có công lớn trong việc thực hiện năm nguyên tắc của ngành y tế nhân dân. Chủ tịch HĐBT Phạm Văn Đồng nói về ông: "Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là một chiến sĩ kiên cường của sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc (...).Bác sĩ đã nêu gương về cái nhìn, cách nghĩ, cách nghiên cứu để giải quyết một cách sáng tạo và độc đáo những vấn đề khó khăn và phức tạp của việc thanh toán những bệnh tật do chế độ cũ để lại". Nhà nước ta đã truy tặng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch Giải thưởng Hồ Chí Minh về cụm 34 công trình khoa học phòng và chống bệnh lao ở Việt Nam, cũng như về các nguyên tắc của y tế nhân dân, mạng lưới y tế cơ sở - y tế nông thôn do ông đề xướng và tổ chức thực hiện. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã mãi mãi ra đi! Nhưng ông thuộc số ít người mà tên tuổi trường tồn cùng sông núi. Ở TP. Hồ Chí Minh có một đường phố đẹp, ngay tại trung tâm, mang tên: Đường Phạm Ngọc Thạch. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Trang 1 trong tổng số 2 trang | Chuyển đến trang : 1, 2 | | ::. | Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|