| Tiêu đề: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:08 am |
| | | | | First topic message reminder :
Nước ta buổi đầu độc lập
1. Ngô Quyền dựng nền độc lập Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), mưu đồ xâm lược của quân Nam Hán bị đè bẹp, năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, chọn Cổ Loa làm kinh đô. Hơn 10 thế kỉ thống trị của các triều đại phong kiến phương bắc đã chấm dức. Nền độc lập và chủ quyền của đất nước được giữ vững. Ngô Quyền quyết định bỏ chức tiết độ sứ của phương Bắc, thiết lập một triều đình mới ở Trung Ương. Vua đứng đầu triều đình, quyết định mọi công việc chính trị, ngoại giao, quân sự; đặt ra các chức quan văn, võ, quy định các lễ nghi trong triều và màu sắc trang phục của quan lại các cấp. Ở địa phương, Ngô Quyền cử các tướng có công coi giữ các châu quan trọng. Đinh Công Trứ làm Thứ sử châu hoan (Nghệ An, Hà Tĩnh), Kiều Công Hãn làm Thứ sử châu phong (Phú Thọ)
2. Tình hình chính trị cuối thời Ngô Năm 944, Ngô Quyền mất, hai con là Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn còn trẻ, không đủ uy tính và sức mạnh để giữ vững chính quyền trung ương. Một viên quan là Dương Tam Kha đã tiếm quyền, tự xưng là Bình Vương, Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Các phe phái nổi lên khắp nơi, đất nước lâm vào tình trạng không ổn định. Năm 950, Ngô Xương Văn được sự ủng hộ của các tướng lĩnh đã lật đổ được Dương Tam Kha, giành lại ngôi vua. Xương Văn mời anh về cùng nhau trông coi việc nước. Song, do mâu thuẫn nội bộ, uy tín nhà Ngô bị giảm sút. Năm 965, Ngô Xương Văn chết. Cuộc tranh chấp giữa các thế lực các cứ, thổ hào địa phương vẫn tiếp diễn. Lúc đó, đất nước rơi vào tình trạng chia cắt, hỗn loạn của 12 tướng lĩnh chiếm cứ các vùng địa phương, đánh lẫn nhau, sử cũ " Gọi là "Loạn 12 sứ quân", đó là: 1. Ngô Nhật Khánh chiếm giữa Đường Lâm (thị xã Sơn Tây ngày nay) 2. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (Phú Thọ ngày nay) 3. Kiều Thuậ giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê- Phú Thọ ngày nay) 4. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (Vĩnh Tường- Vĩnh Phúc ngày nay) 5. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh ngày nay) 6. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì- Hà Nội ngày nay) 7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành- Bắc Ninh ngày nay) 8. Lữ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang- Hưng Yên ngày nay) 9. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Kim Động- Hưng Yên ngày nay) 10. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (Quốc Oai- Hà Tây ngày nay) 11. Trần Lãm giữ Bố Khải Khẩu (thị xã Thái Bình ngày nay) 12. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Triệu Sơn- Thanh Hóa ngày nay)
3. Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước Trong hoàn cảnh nói trên, tại đất Hoa Lư (Ninh Bình) xuất hiện Đinh Bộ Lĩnh- Người sau này lập ra nhà Đinh. Nhờ sự ủng hộ của nhân dân, Đinh Bộ Lĩnh liên kết với sứ quân của Trần Lãm, chiêu dụ được sứ quân Phạm Bạch Hổ, tiến đánh các sứ quân khác. Là người có tài, lại được nhân dân nhhieefu địa phương giứp sức, ủng hộ, ông đánh đầu thắng đấy, được tôn là Vạn Thắng Vương. Các sứ quân lần lượt bị đánh bại hoặc xin hàng. Tình trạng cát cứ chấm dứt. Cuối năm 967, đất nước trở lại bình yên, thống nhất. Nước Đại Cồ Việt thời Đinh- Tiền Lê
I. Về tình hình chính trị- quân sự
1. Nhà Đinh xây dựng đất nước Năm 968, công cuộc thống nhất đất nước đã hoàn thành, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), đóng đô tại Hoa Lư (huyện Hoa Lư- Ninh Bình. Mùa xuân năm 970, vua Đinh đặt niên hiẹu là Thái Bình, sai sứ sang giao hảo với nhà Tống. Đinh Bộ Lĩnh phong vương cho các con, cử các tướng lĩnh thân cận như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Lê Hoàn... nắm giữ các chức vụ chủ chốt. ông cho xây dựng cung điện, đúc tiền để tiêu dùng trong nước; đối với những kẻ phạm tội, thì dùng những hình phạt khắc nghiệt nhu ném vào vạc dầu sôi, hay vứt vào chuồng hổ....
Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh
2. Tổ chức chính quyền thời tiền Lê Cuối năm 979, nội bộ triều Đinh xảy ra một số biến cố. Đinh Tiên Hoàng và con trai Đinh Liễn bị ám hại. Vua mới còn nhỏ, Lê Hoàn được cử l;àm hpuj chính. Một số tướng dấy binh chống lại, đã bị Lê Hoàn đánh bại. Nhân cơ hội đó, nhà Tống (ở Trung Quốc) lăm le xâm phạm bờ cõi Đại Cồ Việt. Trước tình thế hiểm nghèo, các tướng lĩnh và quân đội đồng lòng suy tôn Lê Hoàn lên làm vua để chỉ huy kháng chiến. Lê Hoàn (Lê Đại Hành) đổi niên hiệu là Thiên Phúc, lập nên nhà Lê, sử cũ gọi là tiền Lê Triều đình trung ườg do vua đứng dầu, nắm rõ mọi quyền hành về quân sự và dân sự. Giúp Lê Hoàn bàn việc nước có thái sư (quan đàu triều) và đại sư (nhà sư có danh tiếng). Dưới vua là các chức quan văn, quan võ; các con vua được phong vương và trấn giữ các vùng hiểm yếu Về đơn vị hành chính, cả nước được chiaa làm 10 lộ. Dưới lộ có phủ và châu. Hầu hết quan lại đều là võ tướng. Các quan lại địa phương chưa được sắp xếp đầy đủ. Nhà Lê chú ý xây dựng một đội quân mạnh để bảo vệ chính quyền Trung Ương. Quân đội gồm 10 đạo và hai bộ phận: cấm quân (quân của triều đình) bảo vệ vua và kinh thành), quân địa phương đóng tại các lộ, luân phiên nhau vừa luyện tập vừa làm ruộng. 3. Cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn Đầu năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy theo hai đường thủy, bộ tiến đánh nước ta: quân bộ theo đường Lạng Sơn, còn quân thủy theo đường sông Bạch Đằng. Lê Hoàn trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ông cho quân đóng cột ở sông Bạch Đằng để ngăn chặn chiến thuyền dịch. Nhiều trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra trên sông Bạch Đằng, cuối cùng, thủy quân địch bị đánh lui. Trên bộ, quân ta cũng chặn đánh Tống quyết liệt; hown nữa, chúng không thể kết hợp được với quân thủy nên bị tổn thất nặng, buộc phải rút quân về nước. Thừa thắng, quân ta truy kích tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Quân Tống đại bại, tướng Hầu Nhân Bảo bị giết chết và nhiều tướng khác bị bắt sống. Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi. Đây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của chính quyền độc lập còn non trẻ. Thắng lợi này không chỉ biểu thị ý chí quyết tâm choosng ngoại xâm của quân nhân ta, mà còn chứng tỏ một bước phát triển của đất nước và khả năng bảo vệ độc lập dân tộc của Đại Cồ Việt. Chiến tranh chấm dứt, Lê Hoàn sai sứ sang Trung Quốc giao trả một số tù binh và đặt lại quan hệ bình thường | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
| Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:40 am |
| | | | | Tôn Thất Tùng vẫn sống với trường phái do ông sáng lập
Giáo sư Tôn Thất Tùng qua đời sáng 7-5-1982. Một sự ngẫu nhiên kỳ lạ: Người chiến sĩ Điện Biên năm xưa ấy ra đi đúng vào Ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. "Việc Giáo sư Tôn Thất Tùng qua đời làm cho tôi cũng như nhiều bạn bè của giáo sư choáng váng (...). Không ai có thể thay thế giáo sư Tôn Thất Tùng. Không một nhà phẫu thuật nào có tầm cỡ như giáo sư trong thế hệ hiện nay. Nhưng giáo sư vẫn sống với trường phái do ông sáng lập...". Ngay sau khi nhận được tin giáo sư Tôn Thất Tùng đột ngột từ trần do một cơn nhồi máu cơ tim, trong bức thư gửi đến Đại sứ quán nước ta tại Pháp, bác sĩ Giăng Mi-sen Kri-vin, chủ nhiệm khoa phẫu thuật Trung tâm bệnh viện Ê-min Ru (Pa-ri), đã viết như trên. Giáo sư Tôn Thất Tùng "vẫn sống với trường phái do ông sáng lập", lời tiên đoán ấy rất có căn cứ, bởi lẽ ông là "người cha" của một phương pháp cắt gan mới mang tên ông: Phương pháp Tôn Thất Tùng cho phép cắt gan trong 4-8 phút, trái lại, theo phương pháp vẫn được coi kinh điển của Loóc-ta Gia-cốp (Lorta Jacob), thì phải mất 3-6 giờ. Phát minh của Tôn Thất Tùng không phải do sự "khéo tay", như có người lầm tưởng, mà chính là bắt nguồn từ những nghiên cứu cơ bản do anh sinh viên nội trú Tôn Thất Tùng thực hiện từ năm 1935 đến 1939. Lần đầu tiên trong y văn thế giới, Tôn Thất Tùng đã mô tả các mạch máu và ống mật ở trong gan, sau khi phẫu tích hơn 200 lá gan người chết. Chính vì vậy, luận văn bác sĩ y khoa của ông đã được tặng Huy chương Bạc của Liên hiệp Pháp (1939) và Huy chương Bạc của Trường Đại học Y Pa-ri (1940). Cũng từ năm 1940, Tôn Thất Tùng trở thành Trưởng khoa ngoại Trường Đại học Y Hà Nội, khi ông mới 28 tuổi. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông đã công bố 63 công trình trên các tạp chí, kỷ yếu y học bằng tiếng Pháp - một kỷ lục. Nhờ biết rõ các tĩnh mạch trong gan, Tôn Thất Tùng và May-e Me (Mayer May, một giáo sư người Pháp gốc Do Thái lúc đó làm việc tại Hà Nội) lần đầu tiên trên thế giới đã cắt gan một cách "có kế hoạch", nghĩa là tìm và kẹp chặt các mạch máu ở trong gan trước khi cắt các thùy gan bị ung thư. Kết quả đó được ghi lại trong một bản báo cáo khoa học trình lên Viện Hàn lâm Phẫu thuật Pa-ri và được đưa ra thảo luận tại một phiên họp của viện, nhưng, tiếc thay, bị giáo sư Phun-cơ Bren-ta-nô công kích. Thất vọng trước sự "đón tiếp" của "vị thánh" của ngành phẫu thuật thời ấy, Tôn Thất Tùng e ngại, hơn nữa, sau đó, trong điều kiện khó khăn của chiến tranh du kích, ông không đụng dao đến gan trong hơn 20 năm ròng rã. Trở về Hà Nội giải phóng, giáo sư Tùng mới biết, vào năm 1952, giáo sư Loóc-ta Gia-cốp ở Pháp đã thành công trong việc mổ gan, tìm và buộc tất cả các cuống mạch máu ở ngoài gan. Giáo sư Tùng bỗng cảm thấy mình lại hăm hở như xưa, lại muốn lao vào làm tiếp cái công việc bỏ dở từ năm 27 tuổi. Ngày 7-1-1961, tại Bệnh viện Việt - Đức, ông cắt thùy gan phải của một người bị bệnh ung thư tên là Hải. Ca mổ kéo dài từ 9 giờ 30 đến 9 giờ 36 phút, nghĩa là chỉ trong... sáu phút! Phương pháp Tôn Thất Tùng khác với phương pháp Loóc-ta Gia-cốp ở chỗ: Tôn Thất Tùng tìm ở ngay trong gan (qua tổ chức gan bị bóp vỡ các mạch máu và ống mật, còn vị giáo sư Pháp thì tìm ở ngoài gan (ở đoạn mà người ta gọi là cuống gan). Sau đó, trong vòng một năm, Tôn Thất Tùng cắt gan 50 trường hợp, vượt kỷ lục của Loóc-ta Gia-cốp... mười lần! Nhà phẫu thuật Việt Nam trở thành người có nhiều kinh nghiệm cắt gan nhất thế giới. Ngay trong những ngày chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam, báo Dao bầu (The Lancet) ở Luân Đôn, một tờ báo hằng tuần, phát hành mỗi kỳ hơn một triệu bản, đăng bài báo khoa học của Tôn Thất Tùng: Một phương pháp cắt gan mới. Bài báo lập tức gây tiếng vang rộng rãi trong giới y học thế giới. Chỉ một tháng sau, hơn một trăm tác giả từ Mỹ đến Ô-xtrây-li-a gửi thư sang Hà Nội xin tài liệu. Một số người viết bài dè dặt hoan nghênh. Nhiều người khác kịch liệt phản đối. Nếu năm 1939, Tôn Thất Tùng có phần nản lòng trước lời nhận xét bất công của Phun-cơ Bren-ta-nô, thì năm 1963, ông tự tin hơn, "một mình một ngựa" lao vào cuộc luận chiến tưởng chừng không cân sức với nhiều tên tuổi trong giới phẫu thuật quốc tế. Để có thể làm được điều đó, ngoài việc tinh tường chuyên môn, còn phải hết sức thông thạo ngoại ngữ. Cuối cùng, nhà phẫu thuật Việt Nam đã thắng. Những người công kích ông dữ dội nhất, khi đã thấu hiểu phương pháp độc đáo của ông, liền "phục thiện" trước chân lý, quay lại ca ngợi ông hết lời, coi ông là "người cha", là "vị tổ sư" của phẫu thuật cắt gan có kế hoạch. Cuốn Phẫu thuật cắt gan của Tôn Thất Tùng được Nhà xuất bản Mát-xông in ở Pa-ri, sau đó, được Nhà xuất bản Mê-đi-xi-na ở Mát-xcơ-va dịch ra tiếng Nga. Các bản in đều bán hết ở Liên Xô, CHDC Đức, Pháp, CHLB Đức, Anh, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Mỹ... Phương pháp Tôn Thất Tùng được đưa vào Bách khoa thư nội thương - phẫu thuật của Pháp. Năm 1977, giáo sư Tôn Thất Tùng được Viện Hàn lâm Phẫu thuật Pa-ri tặng Huy chương Phẫu thuật quốc tế mang tên Lan-nơ-lông-gơ. Đây là loại huy chương được đặt ra từ năm 1911, và năm năm mới tặng một lần cho một người mà thôi. Giáo sư cũng được bầu làm viện sĩ của nhiều viện hàn lâm trên thế giới. Trong khoảng bảy mươi năm ngắn ngủi của một đời người (1912 - 1982), ông đã có một phát minh được coi là kinh điển và đã để lại trong y văn thế giới 123 công trình. Sau khi Giáo sư Tôn Thất Tùng qua đời, nhiều giáo sư, bác sĩ từ nhiều nước trên thế giới vẫn tiếp tục sang Hà Nội học hỏi phương pháp Tôn Thất Tùng. Năm 1985, cuốn Phẫu thuật cắt gan qua nhu mô của Tôn Thất Tùng được Nhà xuất bản y học Mi-néc-va in bằng tiếng I-ta-li-a. Các cộng sự gần gũi của giáo sư Tôn Thất Tùng như Nguyễn Dương Quang, Nguyễn Văn Vân đến biểu diễn, thuyết minh phương pháp Tôn Thất Tùng tại Hội nghị quốc tế về gan - mật. Phó giáo sư Tôn Thất Bách, con trai giáo sư Tôn Thất Tùng, nhiều lần được mời sang châu Âu đọc bài giảng và biểu diễn về phương pháp Tôn Thất Tùng. Ở những nước xa xôi như An-ba-ni, Cu-ba, phương pháp cắt gan Tôn Thất Tùng cũng được áp dụng. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:40 am |
| | | | | Trần Đại Nghĩa - Nhà khoa học anh hùng
Kỹ sư Phạm Quang Lễ (tức Giáo sư Trần Đại Nghĩa), sinh ngày 13-9-1913, tại xã Chánh Hiệp, huyện Tân Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thân phụ là nhà nho nghèo Phạm Văn Mùi thường dạy bảo con theo các chuẩn mực đạo đức phương Đông: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ông lấy chữ Lễ của nho gia để đặt tên cho con trai mình. Thân mẫu, bà Phạm Thị Diệu, vốn tin theo đạo Phật. Đỗ đầu kỳ thi thành chung ở Mỹ Tho, Phạm Quang Lễ lên Sài Gòn, vào học Trường Pê-tơ-ruýt Ký. Năm 1933, ông đỗ đầu kỳ thi tú tài bản xứ, sau đó, thi tú tài Tây ban toán, cũng đỗ đầu, rồi thi tú tài Tây ban triết, đỗ hạng ưu. Đọc lịch sử nước nhà, Phạm Quang Lễ nhận thấy bao nhiêu cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã thất bại do thiếu vũ khí tối thiểu cần thiết. Ông khâm phục cuộc khởi nghĩa Hương Khê do vị Đình nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng lãnh đạo. Cao Thắng, một ông tướng giỏi của cụ, đã nghĩ tới việc tự trang bị vũ khí. Ông hướng dẫn hàng trăm thợ rèn Hà Tĩnh bắt chước, chế tạo thành công loại súng của Pháp kiểu 1874. Gần một nửa số nghĩa quân được trang bị bằng thứ súng ấy. Phạm Quang Lễ muốn noi gương Cao Thắng, nhưng tiến xa hơn. Suốt 11 năm ở Pháp (1935 - 1946) Phạm Quang Lễ chỉ theo đuổi một mục tiêu duy nhất là học cho kỳ được cách chế tạo vũ khí của phương Tây. Nhưng đế quốc Pháp đâu phải điên đến mức để cho người Việt Nam ta - kể cả những người đã mang quốc tịch Pháp - được vào học ở các trường dạy về vũ khí hay vào làm việc ở các viện nghiên cứu, các nhà máy sản xuất vũ khí. Vì thế, trong suốt 11 năm dài đằng đẵng ấy, ông chỉ có thể mò mẫm tự học một cách âm thầm, đơn độc và bí mật hoàn toàn. Muốn nắm vững kỹ thuật quân sự, trước hết, phải tinh thông kỹ thuật dân dụng. Phạm Quang Lễ thi đỗ vào Trường Đại học quốc gia Cầu - Đường, một "trường lớn" của nước Pháp, vì thế, bộ thuộc địa phải cấp học bổng cho ông. Sau đó, ông còn theo học các trường đại học Điện, Mỏ, Bách khoa và Học viện Kỹ thuật hàng không. Ông đỗ nhiều bằng kỹ sư, đồng thời, thi lấy nhiều chứng chỉ về khoa học cơ bản ở Trường Đại học Tổng hợp Xoóc-bon. Qua mối quan hệ rộng rãi, ông lặng lẽ tìm kiếm các bí mật quân sự, các bản thiết kế vũ khí. Dần dà ông thu thập được hơn 30 nghìn trang tài liệu về vũ khí, hầu hết là tài liệu mật. Theo Bác Hồ trở về nước, ông không mang theo một thứ của cải gì đáng giá ngoài một tấn tài liệu. Vừa về tới Hà Nội, kỹ sư Lễ đã lên Thái Nguyên, cùng ông Tạ Quang Bửu thử đạn ba-dô-ca Mỹ, nghiên cứu tìm cách tự chế tạo. Ngày 5-12-1946, từ Thái Nguyên trở lại Hà Nội, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đến Bắc Bộ phủ, giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục Quân giới Bộ Quốc phòng và đặt cho "bí danh" là Trần Đại Nghĩa. Nửa tháng sau, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong các xưởng quân giới, công nhân làm việc miệt mài. Đường ray xe lửa, như có phép thần thông, biến dần thành tất cả các bộ phận của khẩu ba-dô-ca, đúng như thiết kế của kỹ sư Nghĩa, với dung sai nhỏ hơn 0,5mm. Ba-dô-ca bắn cháy xe tăng địch, bắn sập các ổ súng máy, làm cho bọn giặc cố thủ trong nhà gạch cháy thành than. Ba-dô-ca bắn thủng cả tàu chiến Pháp ngược sông Lô Thu - Đông 1947. Đánh địch cố thủ trong lô-cốt bê-tông cốt thép, ta cho nổ bộc lôi cỡ lớn hoặc mìn lõm cỡ lớn. Cách đánh đó nguy hiểm cho xung kích, anh em phải ém sát địch. Ở các nước, người ta dùng đại bác hạng trung và hạng nặng hoặc đạn bay (Ca-chiu-sa). Lúc bấy giờ, ta chưa có đạn bay. Còn đại bác, thì chỉ trong những chiến dịch lớn, mới lôi ra dùng, vì nó nặng quá chừng! Kỹ sư Nghĩa ước mơ chế tạo được một loại súng thật nhẹ, có thể vận chuyển dễ dàng trên đôi vai anh vệ quốc, nhưng lại có sức công phá ngang một cỗ đại bác sáu tấn thép. Ông nghĩ tới súng không giật (SKZ). Đây là loại vũ khí hiện đại, mới xuất hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Ô-ki-na-oa (Nhật Bản) cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Tất nhiên, mọi kết quả tìm tòi, nghiên cứu, thiết kế về thứ súng ấy đều được giữ bí mật hoàn toàn. Kỹ sư Nghĩa cùng các cộng sự gần gũi như Nguyễn Trinh Tiếp phải lặp lại cái công việc của nhà sáng chế - phát minh, độc lập với người Mỹ. Cuối cùng, ông đã thành công. Chỉ sau SKZ của Mỹ mấy năm, SKZ Việt Nam xuất hiện lần đầu trong trận Phố Lu, đánh phá tan tành các lô-cốt địch có tường bê-tông dày hơn một mét. Năm 1950, chiến trường nam Trung Bộ nhận được 10 khẩu SKZ và 150 quả đạn từ Việt Bắc chuyển vào. Ít lâu sau Nam Bộ quê hương ông cũng bắt đầu nhận được SKZ. Có SKZ rồi, kỹ sư Nghĩa nghĩ tới đạn bay. Và ông cũng đã thành công, chế tạo được loại tên lửa nặng 30 ki-lô-gam có thể đánh phá các mục tiêu cách xa bốn ki-lô-mét. Sau thắng lợi của Chiến dịch Thu Đông 1947, Bác Hồ và Nhà nước ta phong quân hàm đợt đầu tiên. Ngay từ dạo ấy, kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã là thiếu tướng. Ông cũng là người trí thức Việt Nam đầu tiên được tặng danh hiệu Anh hùng (1953). Gần đây ông được Nhà nước ta tặng Giải thưởng Hồ Chí MInh về cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí súng ba-dô-ca, súng SKZ và SS (1945 - 1954). | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:40 am |
| | | | | Trần Hữu Trang - Nghệ sĩ cải lương của Cách Mạng
Nghệ thuật cải lương hình thành ở Nam Bộ, những thập niên đầu tiên của thế kỷ này, như là kết quả của sự dung hợp ảnh hưởng của hai nền văn hóa Đông - Tây đang diễn ra ở nước ta, nói rõ hơn đó chính là cái gạch nối kỳ diệu giữa kịch hát truyền thống dân tộc với kịch nói đang được du nhập, do vậy nhanh chóng phổ biến cả nước, để rồi trở thành một hình thức luôn giữ vai trò quan trọng trong nền sân khấu dân tộc hiện đại. Nghệ sĩ Trần Hữu Trang sinh năm 1906, tại xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) tuy không thuộc vào lớp nghệ nhân có công đặt viên gạch nền móng cho sự ra đời của cải lương, nhưng chính ông sau đó lại góp phần mở đường cho sự nghiệp xây dựng nền nghệ thuật cải lương cách mạng ở miền nam. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân ở vùng đất có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, nơi Thủ Khoa Huân dũng liệt, bất khuất ngã xuống trước làn đạn quân thù, khi chúng chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, nơi Trương Định khảng khái chống giặc, chính miền quê này cũng là cái nơi phát sinh và phát triển sân khấu cải lương ngay từ buổi rạng đông. Tắm mình trong môi sinh văn hóa đó suốt những năm tháng của tuổi thơ, kịp đến khi trưởng thành, bước vào cuộc sống tự lập, ông luôn gắn bó với tiếng đàn, tiếng hát, với nghệ thuật cải lương, để rồi thật sự dấn thân vào nghiệp cầm ca một cách tự nguyện, say mê. Lúc đầu, trong vai trò khiêm nhường của người thư ký ghi chép kịch bản, bằng ý chí và nỗ lực tự học, bằng khả năng vốn có, dù chỉ tốt nghiệp văn hóa bậc tiểu học, Trần Hữu Trang đã vươn lên trở thành nhà soạn giả, rồi tác giả của sân khấu cải lương khi tuổi còn rất trẻ. Từ kịch bản đầu tay Lửa đỏ lòng son xuất hiện năm 1928, lúc ông mới ngoài 20 tuổi, đến vở diễn Tâm hồn nghệ sĩ tuy còn nhiều vụng về, non nớt nhưng đã bộc lộ những dấu hiệu đáng hy vọng về sự ra đời của một tác giả sân khấu tương lai mang nhiều nhân tố mới mẻ trong nội dung cũng như trong hình thức nghệ thuật, đó là khả năng hướng cải lương vào những vấn đề xã hội đương thời, với một bút pháp hiện thực nghiêm ngặt. Có thể nói những năm 30 là thời kỳ tài năng nghệ thuật của Trần Hữu Trang chín muồi và nở rộng với hàng loạt sáng tác tiêu biểu như Tô Ánh Nguyệt (1934), Lan và Điệp (1936), nhất là Đời cô Lựu (1937) được ghi nhận như là một trong những đỉnh cao của sân khấu cải lương trước Cách mạng Tháng Tám. Giữa lúc nền cải lương công khai dưới chế độ thuộc địa đắm chìm trong vở diễn đậm màu sắc lãng mạn hoặc thiên về tình yêu đôi lứa ướt át, hoặc dừng lâu ở những cảnh đời éo le bi lụy của một thời xưa cũ xa cách với hiện thực xã hội đương thời, thì những tiết mục của Trần Hữu Trang với cái nhìn tiến bộ, sắc sảo trực diện phơi bày những số phận của những tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột, bần cùng hóa như là nạn nhân của bọn thực dân cướp nước, câu kết với bè lũ phong kiến, địa chủ gian ác, từ đó nhen lên ngọn lửa bất bình, công phẫn với cường quyền, đồng thời nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, ý chí đòi quyền sống, đòi tự do, dân chủ trong lòng công chúng rộng rãi. Tiếp tục mạch sáng tạo dồi dào đó, Trần Hữu Trang còn cho ra đời liên tiếp nhiều kịch bản đáng chú ý khác như Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Chị chồng tôi, Tình lụy, hay cộng tác với Năm Châu, Lê Hoài Nở hoàn thành vở diễn Khi người điên biết yêu nổi tiếng đề cập những tấn kịch của tình yêu và hôn nhân đôi lứa nhưng biết đặt nó trong tương quan với hoàn cảnh xã hội đương thời nên vẫn thấm đượm giá trị tố cáo, vạch trần những tệ nạn và sự thối nát của xã hội thuộc địa, lên tiếng bênh vực những khát vọng giải phóng con người thoát khỏi mọi dây trói của lễ giáo, hủ tục, cũng như những bất công ngang trái... Từ tinh thần yêu nước, Trần Hữu Trang đã chuyển dần sang tư tưởng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng trở thành người nghệ sĩ kiểu mới, nghệ sĩ - chiến sĩ, tự giác tham gia có hiệu quả bằng sáng tạo nghệ thuật vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nếu ở thời kỳ tiền khởi nghĩa, Trần Hữu Trang đã có những tiếp xúc với các chiến sĩ cộng sản hoạt động bí mật thì sau Cách mạng Tháng tám, ông đã có lúc tạm rời sân khấu để trực tiếp tham gia kháng chiến cứu nước trong cương vị Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Phú Kiết quê hương để rồi năm 1947, được điều động vào nội thành Sài Gòn làm công tác vận động văn nghệ sĩ, trí thức trở về gắn bó với cải lương, liên tục cho đến sau Hội nghị Giơ-ne-vơ (1954) - tiếp tục đấu tranh cho độc lập và thống nhất đất nước trong những điều kiện mới. Vượt qua bao nhiêu nguy hiểm, Trần Hữu Trang lăn lộn với phong trào sân khấu lúc công khai, khi bí mật, tập hợp giác ngộ những hạt nhân, giữ cho truyền thống yêu nước không bị gián đoạn, tiến tới thành lập được chi bộ đảng trong các đoàn hát giữa lòng thành phố tạm chiếm. Khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam được thành lập, Trần Hữu Trang ra vùng giải phóng trở thành thành viên của UBTƯ Mặt trận, rồi là một trong những người góp phần sáng lập Hội Văn nghệ giải phóng miền nam và được bầu làm Chủ tịch Hội, luôn có mặt ở khắp nơi, ngay cả dưới tầm đạn của kẻ thù để xây dựng một nền sân khấu cải lương cách mạng trong vùng giải phóng đang không ngừng mở rộng. Trên những cương vị công tác suốt hai cuộc kháng chiến này, ngọn bút của ông không thể sung mãn như trước, nhưng ông vẫn ấp ủ, thai nghén những dự định viết nên những kịch bản mới. Năm 1946, ông cho ra đời vở diễn Hậu chiến trường, mãi gần 20 năm sau ông mới bắt tay viết về những giây phút làm nên lịch sử trong cuộc đời của người thanh niên cách mạng - cảm tử Nguyễn Văn Trỗi với cái chết đang là sự kiện làm rung chuyển dư luận tiến bộ trên toàn thế giới. Kịch bản còn ở tình trạng bản thảo, Trần Hữu Trang vẫn nung nấu ý định sửa chữa hoàn thiện, nhưng sẽ chẳng thể nào có cơ hội thực hiện được. Vì, trên đường đi công tác, một ngày đầu tháng 10-1966, tại Suối Cây vùng Sa Mát, trận bom B52 của đế quốc Mỹ đã cướp đi vĩnh viễn sinh mạng của ông. Trần Hữu Trang không có mặt trong hàng ngũ văn công giải phóng từ khu căn cứ trở về Sài Gòn ngày toàn thắng, nhưng những vở diễn của ông như Đời cô Lựu lại hiện diện trên sân khấu những ngày náo nức ấy của lịch sử. Trần Hữu Trang đã ngã xuống, chưa kịp nhìn thấy mơ ước của ông trở thành hiện thực nhưng những sáng tác mà ông để lại, những cống hiến của ông cho sân khấu cải lương cách mạng và cho sự nghiệp giải phóng đất nước đủ xếp ông lên vị trí một tác giả lớn của nền sân khấu Việt Nam hiện đại. Vì tất cả những thành tựu trong nghệ thuật và sự cống hiến cho đất nước, tên ông đã được đặt cho một trường học, một đường phố và cũng đồng thời là tên của một giải thưởng sân khấu lớn ở thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà ông gần suốt cuộc đời gắn bó với nó, để cho thế hệ sinh sau nhớ đến một con người sống xứng đáng với danh hiệu của con người chân chính, một nghệ sĩ đã biết dâng hiến tài năng của mình cho một lý tưởng cao đẹp - vì độc lập, tự do của dân tộc. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:41 am |
| | | | | Trần Huy Liệu - Nhà sử học cách mạng
Trần Huy Liệu được Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học, sinh thời, anh đâu có nghĩ đến điều này. Đôi lúc anh chỉ hài hước nói vui với chúng tôi: "Mình sinh ra mở đầu thế kỷ (1901), được "hưởng" đủ những tra tấn, tù đày của bọn thực dân đế quốc vào loại "hùng" của nửa đầu thế kỷ...". (Bởi nhiều năm ông bị thực dân Pháp tra tấn, tù đày: Cụ thể là 7 năm ở Côn Đảo (1928 - 1934) và gần bốn năm ở ngục Sơn La, căng Bá Vân, nhà tù Nghĩa Lộ (1941 - 1953) với nhiều loại án, kể cả cấm cố, chung thân...). Nhưng khi đón chào bộ Lịch sử Tám mươi năm chống Pháp của anh (ba tập, dày 708 trang (khổ 18x24) ra đời năm 1956-1957, trong đó chính tay anh đã viết về thắng lợi vinh quang của dân tộc, phá vỡ được xiềng gông đế quốc phong kiến giành được độc lập, tự do... chúng tôi và một số bạn bè của anh trên thế giới lại vui mừng chúc tụng anh: "Chịu đựng và chiến thắng được những đau khổ của thế kỷ, Anh cũng lại nhận được những vinh quang của thế kỷ: Từ một nhà cách mạng trở thành một nhà khoa học - nhà sử học...". Công trình Lịch sử Tám mươi năm chống Pháp của anh ra đời được ít lâu thì ở Trung Quốc bản dịch Việt Nam nhân dân kháng Pháp bát thập niên sử cũng xuất hiện. Rồi ở Liên Xô (cũ, các nhà Đông phương học, Việt Nam học, dịch in coi như một cuốn sách không thể thiếu được trong thư viện của mình. Thế rồi nhà nước Cộng hòa dân chủ Đức tặng anh Huân chương khoa học Hum Bôn, và anh lại được nhận danh hiệu Viện sĩ Thông tấn do Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa dân chủ Đức trao tặng. Cái độc đáo ở anh là vừa góp phần "làm nên lịch sử" lại vừa là người chép nên những trang sử vẻ vang của dân tộc ở thời đại anh đang sống. Để có được Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, Trần Huy Liệu đã phải dành cả một phần sức lực và cuộc đời. Chỉ nói riêng phần "Tư liệu lịch sử". Phải có được gần 10.000 trang tư liệu thì mới có được gần 1.000 trang lịch sử như thế. Bởi vì hơn công tác khoa học nào khác không có tư liệu lịch sử thì không có công trình sử học. Tư liệu được các nhà sử học coi như không khí đối với loài chim: Chim không thể vỗ cánh bay lên trong khoảng chân không (không có không khí) được, cũng như nhà sử học không thể viết chay không có tư liệu. Trần Huy Liệu yêu nước nên yêu sử. Yêu sử nên say sưa ghi chép tư liệu lịch sử ghi chép trong nhà tù, ghi lại sau đấu tranh, ghi chép khi tiếp xúc với các nhân vật lịch sử sự kiện lịch sử như anh đã viết: "Vì thân thế và hoàn cảnh, tôi đã được tiếp xúc và thu nhận những nguồn tài liệu ở những nguồn sống hơn là sách vở... những ngày sống với cha, anh trong nhà tù, đã từng tham dự những phong trào Đông kinh nghĩa thục, Đông du và Việt Nam quang phục hội những ngày ở Nam Bộ với một số nhà cách mạng cũ ở Mỹ Tho, Sa Đéc, Bến Tre, Long Xuyên và một vài cố lão ở vùng 18 thôn vườn trầu ngày trước tại Gia Định, những ngày gần gũi với cụ Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh ở Sài Gòn năm 1925-1926, những ngày và đêm nói chuyện với cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự, Huế năm 1935, những ngày ở tù với ông Nguyễn Đình Kiên tại Khám Lớn Sài Gòn năm 1929, những ngày cùng bị giam với những chiến sĩ trong các cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, Hà Nội đầu độc, Đề Thám, Thiên địa hội tại Hòn Cau và Côn Đảo trong những năm 1931-1934... những ngày sống và hoạt động trong phong trào Mặt trận Bình dân trong những năm 1935-1939, cho đến những ngày sống trước cuộc Cách mạng Tháng Tám, vì ham thích về sử học, nhất là sử cận đại, tôi đã ghi chép nhiều...". Công trình khoa học của anh có nhiều tư liệu độc đáo như vậy lại được biên soạn bằng quan điểm khoa học và cách mạng, Đó là: Cách nhìn đúng về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Là sự đánh giá khách quan các sự kiện lịch sử các phong trào cách mạng, Là cách nhận thức đúng đắn các lực lượng cách mạng, động lực của cách mạng và vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Là sự nhận rõ và sắp xếp đúng đối tượng của cách mạng, những kẻ thù của dân tộc, Là sự biểu dương đúng mức những anh hùng dân tộc, danh nhân lịch sử... Và cố nhiên phương pháp lịch sử và phương pháp lô-gíc là những phương pháp mà tác giả không thể xa rời. Chỉ riêng công trình này của Trần Huy Liệu cũng đã được giới sử học trong và ngoài nước ghi nhận như một đóng góp lớn vào nền sử học cận, hiện đại Việt Nam, và tác giả của nó đã được coi như "cây đại thụ", hay như một trong "mấy con đại bàng" trong Sử học Việt Nam hiện nay. Là một tổ chức và quản lý công tác sử học, anh không thể không quan tâm nghiên cứu cả lịch sử cổ đại và trung thế kỷ Việt Nam với các công trình cũng rất có giá trị khoa học, như về Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ... về các chiến công lớn của dân tộc trong lịch sử. Đặc biệt với cương vị là trưởng Ban Thống nhất của Quốc hội trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Trần Huy Liệu đã có cống hiến đáng kể vào việc đưa sử học vào phục vụ cuộc đấu tranh và đã trực diện viết về cuộc đấu tranh ấy. Trong hơn 600 đề mục công trình lớn nhỏ của anh không kể về văn thơ, báo chí, dịch thuật thì riêng về khoa học lịch sử đã có tới hơn 400 đề mục. Trong đó ngoài tính khoa học còn có những công trình biểu lộ tính trung thực của anh đối với nhân dân, với Đảng trong việc đưa khoa học lịch sử vào phục vụ cách mạng mà giới sử học Việt Nam luôn quan tâm học tập và kế thừa. Về sự nghiệp chung, nếu Trần Huy Liệu đã cống hiến trọn đời cho cách mạng thì cũng cống hiến gần nửa cuộc đời cho khoa học. Lúc anh ngã xuống cũng là lúc mà "khoa học và cách mạng quyện vào nhau" trong một con người say sưa cống hiến cho dân tộc, cho đất nước. Trần Huy Liệu xứng đáng và vinh dự được là nhà khoa học được Giải thưởng Hồ Chí Minh. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:44 am |
| | | | | Tuệ Tĩnh (* 1330...): Dùng thuốc nam chữa bệnh - Danh y Việt Nam, người mở đầu cho nền Y học Cổ truyền Dân tộc.
- Ông tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, là người theo Phật Giáo đi tu và có pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (còn được gọi là Huệ Tĩnh) sinh tại Nghĩa Lư huyện Dạ Cẩm, Hồng châu (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Về năm sinh của ông, các sách vở lưu lại chỉ nói vào thời vua Trần Dụ Tông (thế kỷ 14, tức khoảng năm 1330) vì Tuệ Tĩnh vốn là con nhà nông ở nông thôn, nên việc ghi nhớ ngày tháng năm sinh rất khó khăn. Ngày mất không ai rõ, nhưng nơi mất là Giang Nam, Trung Quốc. Lúc lên 6 thì cha mẹ đều mất, vì mồ côi nên ông được một hòa thượng chùa Hải Triều ở Yên Trang (sau này gọi là chùa Nguyên Quang tức chùa Giám xã Tân Sơn huyện Cẩm Bình) đem về nuôi dạy; Năm lên 10, ông được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Định) đưa về cho học với các nhà sư trong chùa Dũng Nhuệ.Ở chùa này ông có pháp danh là Tiểu Huệ biệt danh là Huệ Tĩnh. Ông được chùa cho học chữ và học nghề thuốc để giúp việc chữa bệnh cho dân nghèo trong xã huyện; Năm lên 22 tuổi, Tuệ Tĩnh đi thi Hương và đỗ nhất bảng, nhưng ông không ra làm quan mà vẫn ở lại chùa tiếp tục việc chữa bệnh, lấy pháp hiệu Tuệ Tĩnh từ đó; Năm 30 tuổi, Tuệ Tĩnh về lại chùa Yên Trang làm sư trụ trì, tu bổ lại chùa và nhiều chùa khác trong huyện; Năm 45 tuổi, Tuệ Tĩnh thi Đình đỗ Hoàng Giáp; Năm 55 tuổi, ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc, được Minh triều giữ lại làm việc ở Viện Thái Y rồi mất tại tỉnh Giang Nam (không rõ tại huyện xã nào tại tỉnh này). Về sự nghiệp Y học của Tuệ Tĩnh, ông đã soạn các sách Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm những bản nguyên tác của ông nay không còn trọn vẹn, do vào cuối thế kỷ 14 quân Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng đã phá hủy nhiều thư tịch lớn, những bản hiện nay do người đời sau ghi chép lại qua truyền khẩu dân gian, hiện có các bản: •Nam dược thần hiệu, do Hòa thượng Bản Lai chùa Hồng Phúc (Hòe Nhai, Hàng Than, Hà Nội) biên tập, bổ sung vào năm 1761; Nam dược chính bản, do triều đình Lê Dụ Tông biên tập (sau đổi tên sách là Hồng Nghĩa giác tư y thư in vào năm 1717 gồm quyển thượng và quyển hạ. Quyển thượng: Nam dược Quốc ngữ phú gồm 590 tên vị thuốc nam. Và Trực giải chỉ nam dược tính phú gồm đặc tính của 220 vị thuốc nam. Quyển hạ: Y luận, là sách viết về các lý luận từ âm dương ngũ hành sinh hóa vào con người trong tiết khí 4 mùa, sự ảnh hưởng và bệnh tật, cách điều trị lâm sàng; Thập tam phương gia giảm, phụ Bố âm đơn và Dược tính phú bằng chữ Hán. Là dách hướng dẫn gia, giảm khi dùng thuốc chữa bệnh. Tuệ Tĩnh xây dựng nền móng của Y học dân tộc bằng cách chữa bệnh bằng thuốc Nam, gầy dựng phong trào trồng cây thuốc trong gia đình để tự chữa bệnh trong nhất thời và cũng tạo trang viên có cây cảnh đẹp mắt (nhờ vậy năm 1533 với cây thuốc sẵn có mà dân chúng thoát khỏi bệnh sốt rét hoành hành, hay dịch tả tại Thái Nguyên năm 1574). (Biên niên sử Việt Nam - Thế giới trước năm 2000) | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:46 am |
| | | | | Nhạc sĩ Văn Cao tác giả Quốc ca
Nhạc sĩ Văn Cao đã hoạt động hăng say cho cách mạng từ trước Cách mạng Tháng Tám, người đã viết theo yêu cầu của cách mạng một bài hát cho Trường quân chính kháng Nhật: Bài Tiến quân ca. Tháng 11-1944, bài hát được Văn Cao tự tay khắc in trên báo Độc lập, và khi về Hà Nội, một hôm qua phố Mai Hắc Đế, ông nghe có người chơi đàn măng-đô-lin bản ấy. "Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động, có thể những người khốn khổ mà tôi đã gặp trên bước đường cùng khổ của tôi, lúc này đang cầm súng và đang hát". (1) Ngày 17-8-1945, trong cuộc mít-tinh của nhân dân Hà Nội, lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên trên Nhà hát lớn và vang lên tiếng hát "Tiến quân ca". Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn bản nhạc ấy làm Quốc ca cho nước Việt Nam mới và sau đó đã được Quốc hội chính thức phê chuẩn. Anh vệ quốc quân, chị cán bộ trên núi rừng Việt Bắc, các má trong bưng biền Nam Bộ, người tù Côn Đảo, Phú Quốc, Tổng Nha, Phú Lợi, Thừa Phủ... mỗi lần hát Quốc ca là hát lên hồn thiêng sông núi, để đi đến hy sinh mà không tiếc thân mình: "Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước. Đứng đều lên gông xích ta đập tan". Nhắc đến Văn Cao là nhắc đến "Tiến quân ca" hùng tráng và bất diệt. Con người nhỏ nhẹ hiền từ ấy chứa trong hồn mình khát vọng và tâm huyết của cả một dân tộc nô lệ đang sắp sửa vùng lên. Nửa thế kỷ đã qua, đến hôm nay mỗi khi nghe khúc nhạc ấy vang lên, ta lại thầm cảm ơn Văn Cao, người đã viết cho dân tộc khúc ca hùng tráng ấy. Văn Cao sinh ngày 15-11-1923. Vào năm 1939, 16 tuổi, ông viết Buồn tàn thu rồi sau đó là Thiên thai (1941), Bến xuân (1942), Cung đàn xưa (1942), Suối mơ (1943), Trương Chi (1943). Một dòng suối nhạc tình trào tuôn từ trái tim của chàng trai rất nhát gái, chưa hề được yêu, chưa hề được nắm tay một người con gái nào (2). Đó có lẽ cũng là một lối thoát ra khỏi những bế tắc của một thanh niên mất nước nhưng đầy khát vọng. Thế giới nhạc và lời thơ ấy tuy buồn, khi ai oán, khi ríu rít, khi lâng lâng nhẹ nhàng, phối hợp với lời thơ của thi sĩ Văn Cao hoàn chỉnh trong từng tác phẩm một. Chính vì thế mà đến ngày nay, những tác phẩm ấy vẫn còn có thể làm say lòng người và nâng hồn người lên một thế giới tinh khiết. Thiên thai và Trương Chi là những đỉnh cao trong dòng nhạc lãng mạn nhưng cũng chính từ những đỉnh này, Văn Cao đã dứt khoát đi vào cách mạng. Thiên thai là một giấc mơ giữa cuộc đời ô trọc lúc đó, còn Trương Chi là câu chuyện tình tan vỡ giữa một nghệ sĩ và một cô gái quí tộc và chính Văn Cao đã cảm thấy sự phân cực xã hội đã ảnh hưởng đến tình yêu như thế nào: "Đàn đêm thâu... trách ai khinh nghèo quên nhau"... Bên cạnh thế giới nhạc lãng mạn là những bài hát yêu nước tràn đầy khí phách: Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc. Những bài ca hâm nóng nhiệt huyết của cả một thế hệ và đưa đến Tiến quân ca, Sông Lô, Tiến về Hà Nội sau này. Âm điệu lãng mạn đã đưa Văn cao đến thế giới của tình ta, nhưng cũng chính đôi cánh lãng mạn ấy cộng với nhiệt huyết yêu nước đã nâng hồn ông lên những hành khúc gọi hồn nước, gọi hồn thanh niên một thời: "Ôi Thăng Long, ôi Thăng Long, ôi Thăng Long ngày mai xây đắp dưới vinh quang bằng chí khí anh hùng..." Văn Cao, con người mơ mộng ấy thả hồn mình bay xa thực tại khi làm bài hát: Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam vào năm ấy. Cái tình của ông đối với quân đội, với cách mạng, khát vọng của ông đã làm ông đi trước thực tế đến vài chục năm. Rồi kháng chiến toàn quốc, Văn Cao lên Việt Bắc, ở đó có Làng tôi, Ngày mai..., những ca khúc thắm đượm tình yêu thương đối với làng quê rơm rạ, làng quê du kích... Trái tim lãng mạn xưa đã mở ra cùng một thế giới cảm xúc mới, nó khác với Bến xuân và Suối mơ của giấc mơ huyền ảo xưa. Bây giờ là chiến tranh, là chiến trận, là hy sinh mất mát, là tình cảm của nhân dân. Nhạc của ông giờ đây ngát đầy hương lúa mới, những cánh đồng quê trong máu lửa, nó là bản "giao hưởng đồng nội" trong tâm hồn nhạc sĩ. Ngay trong những năm kháng chiến, Văn Cao đã mơ ngày quân ta tiến về Hà Nội. Phải 5 - 6 năm sau, điều mơ ước ấy mới trở thành hiện thực. Nghệ thuật thật kỳ diệu, bằng giấc mơ, nó đã sáng tạo ra thực tại của nó, và ở một nghệ sĩ lớn thì thực tại nghệ thuật và thực tại cuộc sống luôn bổ sung nhau, chan hòa cùng nhau: "Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về. Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh"... Nhưng tất cả những bản nhạc ấy đều chỉ là những ca khúc nhỏ bên cạnh bản Sông Lô hoành tráng. Mở đầu bản nhạc, Văn Cao đã đưa ta vào cái không khí đầy chất thơ huyền thoại của Việt Bắc: "Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc, bãi dài ngô lau, núi rừng âm u. Thu ru bến sóng vàng, từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu"... Tiếp đó là một sông Lô kháng chiến và kháng chiến đã chuyển nhạc từ nét chậm rãi, mênh mang đến dồn dập, mãnh liệt: "Vui hát ca hòa vui hát ca, hòa dân buông lưới... Đời vun vút lên. Đời vui sướng về... Rung trong bao hương đồng, mừng một mùa chiến công". Rồi đến đoạn cuối, dòng sông Lô lại trôi đi trong một nhịp điệu khoan thai, êm đềm, tha thiết: "Dòng sông Lô trôi. Dòng sông Lô trôi. Mùa xuân tới, nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh in bóng tre. Dòng Sông Lô trôi..." Năm đó là năm 1947, Văn Cao mới 24 tuổi. Sông Lô là một trường ca của nhạc, của thơ và của sắc màu hội họa. Sông Lô là một thể nghiệm thành công về một nhạc cảnh mà hơi nhạc, như ông đã tự nhận, có ảnh hưởng chất hùng tráng của nhạc Bet-thô-ven. Sông Lô đã đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam như một chiến công lớn của nghệ thuật bên cạnh chiến công lớn của quân dân ta trong thời chống Pháp. Và nó vĩnh viễn ở lại trong lòng người. Văn Cao đa tài, đa cảm, ông có khát vọng muốn thành công ở nhiều lĩnh vực: nhạc, thơ, họa. Thơ của ông từ: "Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc" trở về sau có nhiều nét biến đổi mới, thể hiện một sự tìm về nội tâm. Hội họa của ông, đặc biệt là tranh minh họa có phong cách riêng. Nhưng nhắc đến Văn Cao, người ta nhắc đến nhạc. Trong nửa thế kỷ qua, ông là nhạc sĩ lớn. Ông ra đi, thế giới nghệ thuật của ông vĩnh viễn còn đó, để nhiều thế hệ còn đắm say, còn tiếp tục quý yêu ông, một tình yêu sáng trong, cao cả như tâm hồn và âm nhạc của ông. Ngô Ngọc Ngũ Long - TP. Hồ Chí Minh (1) Trích hồi ký "Tại sao tôi viết "Tiến quân ca"" (2) Tâm sự của ông trong lần phỏng vấn ngày 28-7-1993 | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:46 am |
| | | | | Võ An Ninh - Một cuộc đời nhiếp ảnh
Võ An Ninh sinh năm Đinh Mùi (1907). Bức ảnh đầu tiên của ông được công bố vào năm 1932. Từ đó đến nay, trải qua bao thăng trầm của những biến động lịch sử, ông vẫn cầm máy, vẫn say sưa sáng tác, vẫn tiếp tục có thêm những tác phẩm để lại cho đời. Hằng năm, ông in thiếp chúc Tết, có dấu ấn và ảnh của riêng mình gửi tới các hội viên, không chỉ là một cái thư giao thiệp, phần nào đó là nhu cầu tâm hồn của ông. Chỉ sau ba năm cầm máy, Võ An Ninh đã có một tác phẩm "Buổi sáng trên đê sông Hồng" được giải thưởng ngoại hạng do Hội mỹ thuật kỹ nghệ Việt Nam tặng. Năm 1938, tác phẩm "Đẩy thuyền ra khơi" được giải thưởng ngoại hạng triển lãm ảnh Pa-ri. Đây là tác phẩm có bố cục mạnh mẽ, mô tả cảnh lao động của những người dân chài. Cùng năm này, ông được Bằng khen của triển lãm ảnh nghệ thuật quốc tế Portugal cho tác phẩm "Chợ bán nồi đất" và Huy chương vàng tặng cho cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật cá nhân tại Huế. Tác giả sẵn có tấm lòng yêu những phong cảnh quê hương đất nước, say mê chụp ảnh về những con người từ rất sớm, nên tuy chỉ là một cán bộ của Sở khảo cứu nông lâm Đông Dương, ông vẫn sớm tìm ra được phương tiện để phục vụ cách mạng. Bộ ảnh ghi lại nạn đói năm 1945 là một thành công trong sưu tập ảnh của ông. Thời điểm này, ông ghi lại cảnh đói một cách khách quan. Lúc đó phát xít Nhật hất cẳng Pháp cưỡng bức dân nhổ lúa trồng đay, gây ra nạn đói thê thảm ở Thái Bình, Hà Nam, Nam Định... Một trong những bức ảnh được nhiều người ghi nhớ là bức ảnh hai em bé ngồi bên cây số hai Thái Bình chờ chết. Những bước ảnh đó có sức tố cáo mãnh liệt và trở thành sử liệu vô cùng quý giá của lịch sử Việt Nam. Bộ ảnh phóng sự của Võ An Ninh ghi lại hình ảnh Bác Hồ trong một chuyến đi cũng có một giá trị không gì thay thế được. Ở đây, lịch sử được ghi lại bằng ống kính, và nhà nhiếp ảnh trở thành nhân chứng của thời đại. Nhờ giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật, những tác phẩm này có sức sống lâu bền, được ghi nhận như một thành công trong cuộc đời sáng tạo của ông. Võ An Ninh đến với cách mạng thông qua nghề nghiệp và chính cách mạng đã cải hóa tâm hồn ông. Sự nghiệp của ông lại gắn liền với sự phát triển của đất nước, và giá trị của những tác phẩm nghệ thuật lại khẳng định vị trí vững vàng của ông trong lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam. Ông đã sống cuộc đời phong phú và đầy sức sáng tạo. Từ lúc tráng niên cho tới khi râu tóc bạc phơ, trở thành một trong những tác giả lão thành của nhiếp ảnh, ông luôn năng nổ, xông xáo, đi khắp mọi miền đất nước để chụp ảnh. Ông say mê với ảnh phong cảnh, tìm ở đó khả năng phát huy cao nhất sở trường của mình. Năm 1960, ông được Huy chương đồng triển lãm ảnh quốc tế tại Liên Xô với tác phẩm "Nước ròng bãi Trà Cổ", năm 1965, ông được Bằng khen do triển lãm ảnh quốc tế BIFOTA tặng tác phẩm "Đôi nét thủy mặc Sa Pa". Để chụp được bức ảnh Sa Pa, Võ An Ninh đã dành gần như cả tuổi trẻ của mình trở đi, trở lại mảnh đất này, ông thuộc mây và núi, sương mù ở đây đến nỗi có thể kể cả ngày không hết chuyện, ông còn tự rút ra kinh nghiệm riêng để tạo ra những bức ảnh ưng ý ở Sa Pa. Để hiểu thêm về tấm lòng của ông với đất nước có thể kể lại những ngày ông ở lại Hà Nội khi máy bay B52 Mỹ tới bắn phá Thủ đô. Người Hà Nội gọi những ngày đó là những đêm không ngủ. Tuy đã có lệnh không được đi lại, đứng ngồi trên mặt đường, nhưng những phóng viên ảnh vẫn hăng hái đi săn ảnh. Trong số đó có nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Võ An Ninh. Ông thư thái và ung dung như đang đi dạo mát, một bên ghi đông xe đạp ông treo cái mũ sắt, một bên ông treo cái xà-cột vải bạt, trong đựng cái máy ảnh ZET ICONG cổ lỗ sĩ. Có người hỏi: -"Đồ cổ thế mà chọi nhau với B52 tối tân ư bác Võ?" Ông cười khà trả lời: -"Chiến lợi phẩm của tôi mấy bữa nay cũng kha khá. Trời Hà Nội, cây Hà Nội, phố Hà Nội, người Hà Nội những ngày đêm không ngủ, thức suốt mà chơi với nhau với nó. "Ông là người có quan niệm riêng về nhiếp ảnh, gần như suốt đời ông chỉ chụp bằng ống kính trung bình, và tuy là người giỏi về kỹ thuật buồng tối ông cũng không quá lạm dụng trong sáng tác của mình. Có thể thấy rõ điều đó qua triển lãm của ông vào tháng 7-1981 ở thành phố Hồ Chí Minh và Triển lãm ảnh cá nhân tại Hà Nội năm 1983. Đây gần như là bản tổng kết những thành quả sáng tạo qua hàng chục năm gắn bó với đất nước. Mảng ảnh mang nhiều ấn tượng sâu sắc là mảng ảnh về Hà Nội. Các tác phẩm về Hồ Gươm như "Hồ Gươm buổi sớm", "Hồ Gươm bốn mùa", có những bức man mác nét cổ hoài như "Thu về", "Nhớ xưa", những bức ảnh đẹp về thiếu nữ như "Thiếu nữ Hà Nội", "Trong vườn si đền Voi Phục", "Một nét quê hương", "Hương lúa"... Nhiều bức ảnh khác chụp ở những vùng đất khác nhau trên khắp mọi miền đất nước gợi sự thán phục như "Thác Bản Giốc" (Cao Bằng), "Đỉnh Phan-xi-păng", "Xuân về trên dãy Hoàng Liên Sơn", "Phơi lưới trên sông Cấm", "Biển bạc" (Đà Nẵng), "Suối nắng rừng thông" (Đà Lạt), "Nhà thờ Đức Bà"... Với cái nhìn chân thực vẻ đẹp của đất nước, hồn ảnh của Võ An Ninh đượm chất thơ, gần với xu hướng tạo hình mang cảm quan dân tộc. Năm 1991, Võ An Ninh tập hợp các tác phẩm tiêu biểu của mình cho ra đời tập sách "Ảnh Võ An Ninh". Cuốn sách trở thành một tư liệu quý cho những người yêu nghệ thuật. Dù chỉ là một tuyển tập khiêm tốn so với kho tư liệu nghệ thuật hàng chục nghìn phim của suốt một cuộc đời theo đuổi nghệ thuật nhiếp ảnh, nhưng tác phẩm đó cũng đủ vẽ nên những nét chính nhất của cuộc đời sáng tạo Võ An Ninh. Do đóng góp của ông với nghệ thuật nhiếp ảnh và với sự nghiệp cách mạng của đất nước, ông đã được thưởng Huân chương chống Mỹ, cứu nước hạng nhì, Huân chương Lao động hạng nhì, Huân chương Độc lập hạng ba và gần đây nhất ông được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:47 am |
| | | | | Hồ Chí Minh - biểu tượng của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Việt Nam - Hồ Chí Minh... Trong những thập kỷ gần đây, những từ này đã trở thành những từ không tách rời nhau. Việt Nam là đất nước của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là biểu tượng của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tên tuổi vĩ đại của Người là hiện thân của tất cả những gì ưu tú của Việt Nam: tính khiêm nhường và lòng kiên cường, tinh thần cần cù và chủ nghĩa anh hùng, nền văn hóa lâu đời và nhịp độ khẩn trương trên những công trường của ngày hôm nay. "Không có gì quý hơn độc lập tự do" - lời kêu gọi đó của vị Chủ tịch đầu tiên của Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã trở thành châm ngôn của cả nước. Cuộc đấu tranh ngoan cường và lâu dài để giành độc lập, tự do, dân tộc, dân chủ và thống nhất đất nước, vì chủ nghĩa xã hội, đã đoàn kết toàn thể nhân dân Việt Nam xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập. Bọn thực dân Pháp, bọn quân phiệt Nhật, bọn đế quốc Mỹ đã mưu toan đặt Việt Nam dưới quyền thống trị của chúng. Tất cả bọn này đã thất bại nhục nhã. Những đội quân viễn chinh được vũ trang đến tận răng, những chiếc pháo hạm, không quân hiện đại đều đã tỏ ra bất lực. Được sự giúp đỡ và ủng hộ anh em của Liên Xô, của các nước xã hội chủ nghĩa khác, của toàn thể loài người tiến bộ, nhân dân Việt Nam đã đánh đuổi bọn xâm lược ngạo mạn ra khỏi đất nước mình. Ngày 30/4/1975, tên giặc cuối cùng đã rời khỏi Việt Nam. Lời tiên tri của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành sự thật: ..."Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng tất cả cuộc đời giác ngộ của mình cho cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của ngoại bang, vì chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt đón chào Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại, nhận rõ chủ nghĩa Lê-nin là con đường đi đến giải phóng các nước thuộc địa. Nhiều năm sau Người còn viết: "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất". Năm 1920, đồng chí Hồ Chí Minh tham gia Đại hội toàn quốc của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua và kiên quyết đứng về phía Quốc tế III do V.I. Lê-nin sáng lập. Tại Đại hội này, Người là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Với sự giúp đỡ của các đồng chí Pháp, vào năm 1921 đồng chí Hồ Chí Minh đã lập ra hội các nước thuộc địa da màu và tờ báo Lơ Pa-ri-a (Người cùng khổ ở Paris. Tờ báo đã giới thiệu với độc giả về phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa, về học thuyết Mác - Lê-nin và cuộc sống ở Liên Xô. Tháng 6-1923, đồng chí Hồ Chí Minh đến Ma-xcơ-va và đến tháng mười năm đó, được bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nông dân. Người đã tham gia Đại hội của Quốc tế cộng sản với tư cách là đại biểu của Đảng Cộng sản Pháp và đại biểu của các nước thuộc địa. Người được cử làm ủy viên thường trực Bộ Phương Đông của Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản. Trong bài viết về việc V.I. Lê-nin qua đời, đồng chí Hồ Chí Minh đã gọi Lê-nin là ngôi sao sáng dẫn đường đưa nhân dân lao động đến cách mạng xã hội. Về sau, trong cuốn Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin đồng chí Hồ Chí Minh viết: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ III. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" ..."Lê-nin nằm nhắm mắt... Có lẽ Người đang mải giấc mơ, Để thấy trước những bước đường lịch sử... Người không nói nhưng trán Người tư lự Lắng nghe nghìn câu hỏi từ xa..." (Tố Hữu) Vào năm 1929, chính quyền Pháp đã kết án tử hình vắng mặt đồng chí Hồ Chí Minh. Tháng hai năm 1930, theo sự ủy nhiệm của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, đồng chí Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản lúc đó hoạt động ở Việt Nam. Ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Sau đó vài tháng, Đảng đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 5/6/1931, chính quyền Anh đã bắt giam đồng chí Hồ Chí Minh tại Hương Cảng. Chẳng bao lâu, sau khi được thả ra - vào năm 1934, Người trở lại Liên Xô. Tại đây, đồng chí Hồ Chí Minh theo học ở Trường Quốc tế Lê-nin và làm việc tại Trường đại học về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Năm 1935, Người tham gia Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản. Tháng 2/1941, đồng chí Hồ Chí Minh trở về Việt Nam. Tại đây, Người đã triển khai hoạt động cách mạng sôi nổi. Tháng 5/1941, dưới sự lãnh đạo của Người, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiến hành Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, thông qua quyết định bắt tay vào việc chuẩn bị tích cực cho cuộc khởi nghĩa vũ trang và thành lập các khu căn cứ du kích. Sau này, đồng chí Phạm Văn Đồng, ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chỉ rõ: "Cuộc họp này của Trung ương Đảng đã mở ra con đường đi đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945". ... Phát biểu tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng, đồng chí Hồ Chí Minh nói rằng, nếu bọn phát xít dám cả gan tấn công Liên Xô thì các dân tộc bị áp bức, trong đó có nhân dân Việt Nam, sẽ chiến đấu kề vai sát cánh cùng những người Xô-Viết anh em. Những người cộng sản Việt Nam coi cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô là cuộc chiến tranh cách mạng của những người lao động... chống lại quân đội phát xít xâm lược. Ngày 13/8/1942, đồng chí Hồ Chí Minh bí mật sang Trung Quốc. Sau khi vượt biên giới đồng chí đã bị bọn Quốc dân đảng bắt giữ trái phép ngày 29/8 năm ấy. Đồng chí bị chúng giam giữ gần hai năm.. Trong tù, đồng chí đã viết tác phẩm nổi tiếng Nhật ký trong tù mà ngày nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới ... "Trời ấm, hoa cười chào gió nhẹ, Cây cao, chim hót rộn cành tươi... Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà... Tàng sĩ đua nhau ra mặt trận Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi Chí cao mà chẳng đáng đồng trinh"... (Hồ Chí Minh) Năm 1944, sau khi trở về Tổ quốc, đồng chí Hồ Chí Minh đã bắt tay vào công việc chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Đại hội đại biểu quốc dân, họp ở Tân Trào trong các ngày 15,16/8/1945 đã bầu ra ủy ban dân tộc giải phóng, đứng đầu là đồng chí Hồ Chí Minh, về sau, ủy ban này trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Ngày 2/9/1945, đồng chí Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thực dân Pháp rắp tâm không chịu để mất thuộc địa của mình, nên ngay sau đó đã gây ra cuộc chiến tranh chống lại nhân dân Việt Nam. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo vệ các thành quả Cách mạng Tháng Tám. Người tuyên bố: "... Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ..." Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã kết thúc vào năm 1954 với chiến thắng lẫy lừng tại Điện Biên Phủ, đưa đến hiệp định hòa bình tại Giơ-ne-vơ. "... Hà Nội chiều nay mưa tầm tã Ta lại về đây giữa phố xa Nước Hồ Gươm sao xanh dịu quá Tháp Rùa rơi lệ cười trong mưa..." (Nguyễn Đình Thi) Đó là lời thơ của nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Thi miêu tả Tổ quốc được trở lại thanh bình. Theo hiệp định Giơ-ne-vơ: trong khi chờ đợi có tổng tuyển cử, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền Bắc và Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm đường phân chia. Miền Bắc do chính quyền dân chủ nhân dân kiểm soát. Miền Nam vẫn còn bị quân đội Pháp chiếm đóng. Trong tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược gắn chặt với nhau: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và hòa bình thống nhất nước nhà. Đại hội lần thứ III của Đảng họp vào tháng 9/1960, đã bầu lại đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất. Đồng chí Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tháng 4/1960, Người viết: "Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và việc chúng ta là thành viên của đại gia đình xã hội chủ nghĩa thế giới là sự thực hiện Luận cương của Lê-nin về khả năng một nước thuộc địa lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Khi đế quốc Mỹ thế chân thực dân pháp ở Nam Việt Nam, rồi sau đó lại gây ra cuộc "chiến tranh trên không" chống miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ những người yêu nước ở miền Nam và các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến lên giành những chiến công làm rạng rỡ Tổ quốc. Cả nước đã trở thành một mặt trận thống nhất. Mùa hè năm 1955, đồng chí Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm Liên Xô. Tại Ma-xcơ-va, đồng chí đã tham dự lễ kỷ niệm 40 năm và 43 năm Cách mạng Tháng Mười vĩ đại; sau đấy Người dẫn đầu đoàn đại biểu của Đảng Lao động Việt Nam tham dự các đại hội lần thứ XXI và XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô. Người còn tham gia các Hội nghị của các đảng cộng sản và công nhân vào năm 1957 và 1960 cũng như nhiều lần sang nghỉ ở Liên Xô. Đồng chí Hồ Chí Minh là người cộng sản quốc tế trung kiên. Đồng chí đã có những đóng góp to lớn vào việc phát triển quan hệ anh em của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với các nước xã hội chủ nghĩa khác. Phát biểu tại Đại hội lần thứ XXII Đảng cộng sản Liên Xô, đồng chí nhấn mạnh: Chúng tôi sẽ luôn luôn kề vai sát cánh với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của sự nghiệp hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Đồng chí Hồ Chí Minh tuyên bố: Nhân dân Việt Nam không bao giờ quên rằng những thắng lợi của mình không tách rời sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô. Những người Xô Viết đánh giá cao cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự nghiệp củng cố tình Hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô. Bằng chứng rõ ràng về sự thật đó là việc Chủ tịch Hồ Chí Minh được tặng thưởng Huân chương Lê-nin. Tại Thủ đô của Liên Xô có Quảng trường Hồ Chí Minh; tên tuổi của Người được đặt cho Trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ ở Iếc-cút-xcơ và cho chiếc tàu biển vẫn thực hiện các chuyến sang Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần ngày 3/9/1969. Trong giờ phút vĩnh biệt vị lãnh tụ của mình, những người cộng sản Việt Nam, toàn thể nhân dân Việt Nam đã thề thực hiện đến cùng sự nghiệp thiêng liêng là giải phóng và thống nhất Tổ quốc; sự nghiệp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng cả đời mình. Và sự kiện có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc là chiến dịch Hồ Chí Minh - mang tên Người đã toàn thắng, chấm dứt sự thống trị của Mỹ và bọn bù nhìn tay sai tại miền Nam Việt Nam. Những suy nghĩ và tình cảm của nhân dân Việt Nam đã gắn bó thiêng liêng với những lời Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đã được đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phát biểu: "Toàn dân tộc ta hãy dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ chiến thắng của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại! Những thắng lợi to lớn hơn nữa đang chờ đón chúng ta!" | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:49 am |
| | | | | Nhà Trần (1225-1400)
Các vua triều Trần
Trần Thái Tông: 1225-1258 Trần Thánh Tông: 1258-1278 Trần Nhân Tông: 1279-1293 Trần Anh Tông: 1293-1314 Trần Minh Tông: 1314-1329 Trần Hiển Tông: 1329-1341 Trần Dụ Tông: 1341-1369 Trần Nghệ Tông: 1370-1372 Trần Duệ Tông: 1372-1377 Trần Phế Đế: 1377-1388 Trần Thuận Tông: 1388-1398 Trần Thiếu Đế: 1398-1400 I. Giai đoạn hưng thịnh của nhà Trần
Trần Cảnh (1218-1277) lên làm vua lấy hiệu là Trần Thái Tông, cha là Trần Thừa làm Thượng hoàng, chú là Trần Thủ Độ làm Quốc Thượng phủ. Từ đó, vì Trần Thái Tông còn nhỏ, Trần Thủ Độ đã chi phối rất nhiều đến công việc chính trị như việc bức tử Thượng hoàng Lý Huệ Tông (1226), việc xây dựng lại thành Thăng Long (1230), việc thảm sát tập thể tôn thất nhà Lý (1232).
Khi lớn lên, Trần Thái Tông tỏ rõ ra có bản lĩnh, đưa được xã hội đã bị rối loạn cuối triều Lý trở lại ổn định. Để sửa lại kỷ cương đã quá lỏng lẻo cuối triều Lý, nhà vua định ra pháp luật khá nghiêm khắc. Những người phạm tội trộm cắp đều phải chặt chân, chặt tay, thậm chí bị voi giày.
Khác với các vua nhà Lý, các vua Trần có lệ nhường ngôi sớm cho con để lên làm Thái Thượng hoàng. Thái Thượng hoàng cùng vua trông nom việc nước. Thực chất đây là giai đoạn thực tập thuật trị nước cho vị vua mới.
Hệ thống quan lại cũng được định chế lại dưới triều vua Trần Thái Tông. Cao hơn hết là Tam Công, Tam Thiếu, Thái úy, Tư Mã, Tư Đồ, Tư Không. ở dưới là các quan văn võ chia làm hai chức: nội chức (quan tại triều ở các bộ) và ngoại chức (quan địa phương). Cứ 10 năm thì các quan được thăng thêm một hàm và 15 năm thì lên một chức. Ai có quan tước thì con được thừa ấm làm quan, còn những người khác bất kể giàu nghèo đều phải đi lính. Tuy thế, những người có học vẫn có thể tham chính qua con đường thi cử.
Các vua Trần rất chú ý đến việc chiêu hiền đãi sĩ. Từ năm 1232 vua Trần Thái Tông đã mở khoa thi Thái học sinh, đến năm 1247 lại đặt ra Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Chính trong kỳ thi này đã xuất hiện nhiều kỳ tài như Trạng nguyên 13 tuổi Nguyễn Hiền, Bảng nhãn và về sau là sử gia Lê Văn Hưu.
Triều Trần phân ra hai loại ruộng công: ruộng quốc khố và ruộng thác điền. Ruộng thác điền là ruộng thưởng công cho các quan, đóng thuế rất ít. Thuế thân thì căn cứ vào số ruộng có được mà đóng bằng tiền còn thuế ruộng thì đóng bằng thóc.
Trong nước có một số thay đổi về hành chính. Năm 1242, Trần Thái Tông chia nước ra làm 12 lộ, mỗi lộ có An Phủ sứ chánh và phó cai trị và có sổ dân tịch riêng. Dưới lộ là phủ, châu huyện do các Đại Tư xã hay Tiểu Tư xã trông coi, Đơn vị sau cùng là làng xã. Xã quan do dân bầu, được gọi là chánh sử giám.
Người trong nước được phân ra từng hạng: con trai vào 18 tuổi thì gọi là tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi là đại hoàng nam, 60 tuổi trở lên là lão hạng.
Dưới triều vua Trần Thái Tông, vào năm 1258, quân Mông Cổ sang xâm lược Đại Việt. Nhà vua lãnh đạo toàn dân, đẩy lui được cuộc xâm lăng này. Sau chiến thắng, vua nhường ngôi cho Thái tử Hoảng và lên làm Thái Thượng hoàng. Ngài về quê Tức Mặc, lập cung Trùng Quang để ở, dành thì giờ đi ngao du sơn thủy và nghiên cứu Thiền học. Ngài trước tác một số tác phẩm quan trọng như "Kiến trung thường lệ" (năm quyển), "Quốc triều thông chế", một số thi văn và quan trọng nhất là cuốn cảo luận triết học 'Khóa hư lục". Ngài làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất (1277).
Trần Thánh Tông là một ông vua nhân từ. Dưới triều của nhà vua, trong nước bình yên không có nội loạn hoặc ngoại xâm. Nhà vua chú trọng đến nông nghiệp, bắt các vương hầu công chúa chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn đất hoang. Điền trang của vương hầu bắt đầu có từ đấy.
Năm 1278 vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Khâm và lên làm Thượng Hoàng.
Thái Tử Trần Khâm lên làm vua, lấy hiệu là Trần Nhân Tông.
Dưới thời Trần Nhân Tông, chữ Nôm bắt đầu được trọng dụng. Nguyễn Thuyên, quan Hình bộ Thượng thư đã làm thơ phú bằng chữ Nôm, về sau nhiều người làm theo và gọi đó là Hàn luật.
Một điểm son khác của thời này là công cuộc đánh đuổi quân Nguyên. Đế quốc Nguyên Mông bành trướng thế lực, diệt được nhà Tống, phát động hai lần xâm lược Đại Việt từ 1284 đến 1288. Nhưng vua Trần Nhân Tông cùng các kiệt tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản... đã oanh liệt đánh bại toán quân được mệnh danh bách chiến bách thắng này.
Năm 1293, khi việc nước đã ổn định, vua Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Thuyên và lên làm Thái Thượng hoàng rồi đi tu ở núi Yên Tử lấy hiệu là Trúc Lâm đầu đà. Sau khi Thượng hoàng mất, các môn đệ tôn ông là Đệ nhất Tổ phái Trúc Lâm.
Thái tử Trần Thuyên lên ngôi, ấy là Trần Anh Tông. Đây là một bậc minh quân biết trọng đãi tôi trung, thưởng phạt phân minh và có một chính sách cai trị vững vàng.
Vua Anh Tông không kể gì đến thân hay sơ trong việc dùng người, nhà vua chỉ căn cứ vào tài năng mà cho chấp chánh chứ không cứ phải là người họ Trần. Vì thế nhà vua được nhiều nhân tài giúp sức như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão.
Một nhân vật khá đặc biệt và tài ba là Mạc Đĩnh Chi, người học trò thi đỗ Trạng Nguyên vào năm 1304, đã giúp vua tích cực trong việc ngoại giao với nhà Nguyên. Trong chuyến đi sứ vào năm 1308, với tài năng ứng đối linh động ông đã thu phục được sự kính nể của vua Nguyên và được vua Nguyên phong danh hiệu "Lưỡng quốc Trạng nguyên".
Đoàn Nhữ Hài là một người học trò có tài đã giúp vua ổn định được hai châu Ô và Lý. Trương Hán Siêu vốn là mạc khách của Trần Hưng Đạo, được Trần Hưng Đạo tiến cử lên vua. Vua trọng dụng ông, sai ông soạn nên những bộ sách quan trọng về tổ chức chính quyền và về luật pháp như "Hoàng Triều Đại Điển", "Hình Luật Thư".
Dưới thời Trần Anh Tông, Đại Việt có thêm được đất hai châu Ô và Lý (vùng đất Bình Trị Thiên ngày nay) do cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân, em vua với Chế Mân, vua Champa. Để cưới được công chúa Huyền Trân, Chế Mân (Shinhavarman III) lấy hai châu ấy làm lễ dẫn cưới. Một năm sau khi gả Huyền Trân, vào năm 1307, vua Anh Tông cho thu nhận hai Châu Ô và Lý, đổi tên lại là Hóa Châu và Thuận Châu, sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.
Dưới thời Anh Tông, tục lệ Việt Nam có nhiều thay đổi như tục xâm mình của các vua được bãi bỏ. Từ thời Hùng Vương cho đến bấy giờ, các vua Việt có tục lệ lấy chàm vẽ rồng vào đùi nhưng Anh Tông từ chối thực hiện tục lệ ấy. Vì thế các vua thời sau cũng không theo nữa. Một hủ tục khác cũng được bỏ dần, đó là tục hôn nhân cận huyết của họ Trần. Dù chưa được chấm dứt hẳn nhưng hôn nhân trong họ đã dần dần ít đi.
Vua Trần Anh Tông làm vua đến năm 1314 thì nhường ngôi cho Thái tử Mạnh và lên làm Thái Thượng Hoàng.
Thái tử Mạnh (Minh Tông) lên làm vua, thừa hưởng được sự thịnh trị của các triều vua trước. Các quan đại thần tài năng trước như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu tiếp tục giúp vua cai trị đất nước. Ngoài ra còn có các nhân vật khác nổi lên như Mạc Đĩnh Chi, Chu An góp phần vào việc chấp chánh.
Dưới thời vua Minh Tông, các quân sĩ không phải vẽ mình như trước nữa (1323) và từ đấy nước ta bỏ lệ vẽ mình. Để đề cao tình gia tộc, nhà vua ra lệnh cấm người trong họ đi kiện nhau. Danh nho Chu An đỗ Thái học sinh năm 1314, nhưng không ra làm quan. Mãi sau, nghe danh tiếng của ông, vua Minh Tông mời ông ra bổ nhiệm làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám và dạy học cho Thái tử Trần Hạo. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:50 am |
| | | | | 2. Công cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông (1258-1288)
2.1 Chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258)
Chiến công đầu tiên xảy ra dưới thời vua Trần Thái Tông vào năm 1258. Vào đầu thế kỷ XIII quốc gia Mông Cổ được thành lập dưới quyền uy của Thành Cát Tư Hãn (Thiết Mộc Chân), tung hoành vó ngựa xâm lược khắp Âu á và thành lập được một đế quốc rộng lớn từ bờ Thái Bình Dương cho đến bờ biển Hắc Hải.
Vào năm 1258, Chúa Mông Cổ bấy giờ là Mong-ké (Mông Kha, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn) sai em là Hốt Tất Liệt (Kubilay) đánh lấy nước Đại Lý (Vân Nam bây giờ) và chuẩn bị đánh nhà Tống. Để dùng Đại Việt làm bàn đạp tấn công nhà Tống từ phía Nam, Hốt Tất Liệt cho sứ sang bảo vua Trần phải thần phục. Vua Trần Thái Tông cho giam đoàn sứ giả lại rồi sai Trần Hưng Đạo đem quân lên giữ phía Bắc.
Không thấy đoàn sứ giả trở về, quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) tràn xuống sông Thao, xâm lấn Đại Việt. Trần Thái Tông thân chinh ra cự địch nhưng không thắng phải rút về Thăng Long. Trước sức uy hiếp của ba vạn quân Mông thiện chiến, nhà vua lại phải rút khỏi Kinh thành về đóng ở sông Thiên Mạc (Đông An, Hưng Yên).
Quân Mông Cổ chiếm được thành Thăng Long, tìm thấy đoàn sứ giả bị trói trong ngục, lại có một người đã chết nên vô cùng tức giận, ra sức chém giết dân chúng trong thành.
Trong tình thế nguy nan ấy vua Trần Thái Tông hỏi kế triều thần. Người em ruột của vua là Trần Nhật Hiệu khuyên nên "nhập Tống" nhưngThái sư Trần Thủ Độ khảng khái trả lời: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo". Được khích lệ, Trần Thái Tông yên tâm chuẩn bị lực lượng.
Không quá mười ngày sau khi chiếm thành Thăng Long, quân Mông Cổ đã gặp khó khăn vì không kiếm ra được lương thực lại thêm không phủ hợp thủy thổ, nên bị ốm bệnh rất nhiều. Trần Thái tông liền phản công, cho tiến quân ngược dòng sông Hồng đánh lấy Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng ở Hà Nội) và đuổi bật quân Mông Cổ ra khỏi Thăng Long. Quân Mông Cổ thua, chạy rút về Vân Nam, trên đường tháo chạy, vì quá mỏi mệt và khiếp sợ nên không quấy nhiễu dân chúng, do đó được gọi là giặc Phật.
Ngày mồng một Tết năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông ngự triều làm lễ phong thưởng cho các người có công. Một tháng sau đó, nhà vua truyền ngôi cho Thái tử Hoảng và lên làm Thái Thượng hoàng. Đại Việt có được một thời gian yên bình từ sau chiến thắng này cho đến năm 1285.
Tuy tình hình trong nước yên ổn, nhưng quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Mông Cổ gặp nhiều rắc rối. Nhân dịp vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho vua Trần Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang phong vương và đặt điều lệ là ba năm phải cống một lần. Lệ cống gồm có nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền. Mỗi thành phần ba người, cùng với các sản vật quý như sừng tê, ngà voi, đồi mồi... Ngoài ra, vua Mông Cổ còn đặt quan giám trị (Đạt lỗ hoa xích) để kiểm tra các châu quận của Đại Việt.
Tuy bề ngoài thần phục Mông Cổ nhưng vua Trần Thánh Tông chú trọng việc quân sự để phòng bị. Vua cho tuyển đinh tráng ở các lộ làm lính, phân quân đội ra làm quân và đô, mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người.
Năm 1266, vua sai sứ sang Mông Cổ thương lượng để không phải cống người nữa. Vua Mông Cổ đồng ý nhưng ra 6 điều khoản khác:
Vua Trần phải qua Mông Cổ chầu Vua Trần phải cho con hay em sang Mông Cổ làm con tin Đại Việt phải nạp số dân trong nước cho Mông Cổ Đại Việt phải chịu việc binh dịch Đại Việt phải nộp thuế Mông Cổ vẫn duy trì chế độ quan giám trị. Vua Thánh Tông cứ lần lữa không chấp nhận. Bấy giờ Hốt Tất Liệt đã lên làm vua Mông Cổ (1260), cho sứ sang dụ vua Trần sang chầu. Vua Trần Thánh Tông cáo bệnh không đi.
Năm sau, Hốt Tất Liệt lại cho sứ sang xác định vị trí của cột đồng Mã Viện. Vua Thánh Tông cho trả lời là cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không tìm ra.
Đến năm 1275 vua Thánh Tông cho sứ sang nhà Nguyên (Hốt Tất Liệt đổi quốc hiệu thành Đại Nguyên vào năm 1271) xin miễn chức giám trị đi, mà thay vào một loại có tư cách như sứ thần. Nhà Nguyên không chịu, cứ bắt Đại Việt phải tuân thủ 6 điều lệ như đã định. Vua Trần Thánh Tông cũng không nhượng bộ.
Năm 1279 nhà Nguyên đánh bại nhà Tống, làm chủ Trung Hoa. Từ đó nhà Nguyên tiếp tục mở rộng đất đai về phía Nam. Đại Việt trở thành mục tiêu của đại quân tinh nhuệ nhà Nguyên.
Nghe tin vua Trần Nhân Tông lên ngôi (1279) vua Nguyên sai sứ là Sài Thung sang hạch hỏi, lấy cứ vua Trần dám tự lập làm vua không xin phép triều đình nhà Nguyên. Sài Thung buộc vua Nhân Tông phải sang chầu Nguyên chủ để chuộc lỗi nhưng vua từ chối.
Năm 1282, nhà Nguyên lại cho sứ sang dụ vua qua chầu, vua cử người chú là Trần Di ái đi thay mình. Vua Nguyên không bằng lòng, lập ra "tuyên phủ ty" để giám trị Đại Việt. Khi phái đoàn nhà Nguyên đến để tiến hành việc giám trị, vua nhân Tông cho đuổi về.
Hốt Tất Liệt bèn mua chuộc Trần Di ái, phong ái làm An Nam quốc vương và sai Sài Thung dẫn 1.000 quân hộ tống về nước. Vua Trần cho quân đón đánh ở ải Nam Quan, Sài Thung bị bắn mù một mắt phải tháo chạy về nước còn Trần Di ái thì bị bắt, bị tội đồ làm lính. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:51 am |
| | | | | 2.2 Chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ hai (1285)
Năm 1282. Nguyên chủ sai con là Thoát Hoan làm Trấn Nam Vương, cùng Toa Đô và Ô Mã Nhi dẫn 50 vạn quân giả lấy tiếng mượn đường sang Champa. Riêng Toa Đô chỉ huy một toán thủy binh, tiến đánh Champa bằng đường biển.
Trước mưu toan xâm lược của quân Nguyên, vua Trần triệu tập công hầu, quan lại tại Bình Than (Hải Hưng) bàn kế phòng đánh và chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu. Trần Hưng Đạo được phong làm tiết chế thống lĩnh toàn quân, Trần Quang Khải làm thượng tướng, Trần Khánh Dư làm phó Đô tướng quân.
Để khích lệ mọi người đứng lên chiến đấu vì đại nghĩa Trần Hưng Đạo viết và truyền bài hịch nổi tiếng "Hích Tướng Sĩ"
Trong hịch có đoạn tha thiết: "... Huống chi ta cùng các người, sinh ra vào lúc rối ren, lớn lên vào buổi hoạn nạn, thấy sứ giả của giặc qua lại dọc ngang ngoài đường, khua tất lưỡi cú vọ mà khinh rẻ triều đình, đem cái thân dê chó mà ngạo mạn tể tướng... Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột như như cắt, chỉ giận không được ăn thịt nằm da, đốt gan uống máu thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng..."
Tướng sĩ được khích lệ, ai nấy một lòng diệt giặc. Họ lấy mực xâm lên tay hai chữ "sát Đát" để tỏ lòng quyết tâm của mình.
Trần Hưng Đạo phân công Trần Khánh Dư đem quân ra trấn giữ cảng Vân Đồn, còn Trần Bình Trọng thì đi đóng đồn trên sông Bình Than. Phạm Ngũ Lão đóng từ biên giới cho đến Chi Lăng, Trần Nhật Duật đóng ở Tuyên Quang đến Tam Đái (Nam Phú Thọ, Đông Bắc Vĩnh Yên). Các tướng khác cũng đem quân đóng giữ các nơi quan yếu. Riêng Trần Hưng Đạo đóng ở Nội Bàng (vùng xã Bình Nội, Bắc Giang), trên con đường đi về Vạn Kiếp (Hải Dương) để tiếp ứng cho các nơi. Trong khi ấy, vua Nhân Tông cho người mang lễ vật sang xin nhà Nguyên hoãn binh nhưng nhà Nguyên không chấp nhận. Thoát Hoan được lệnh tiến quân. Vua Nhân Tông bèn triệu tập hội nghị Diên Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh (1.1285).
Tháng 1.1285, đại quân do Thoát Hoan chỉ huy ào ạt tiến qua Lạng Sơn, nhằm đến Nội Bàng. Trên đường đi, tuy bị quân của Đại Việt chận đánh kịch liệt, đại quân của Thoát Hoan vẫn kéo đến được Nội Bàng và bao vây quân Đại Việt tại đây. Ngày 2.2.1285, một trận chiến ác liệt nổ ra. Thấy thế quân Nguyên quá mạnh, Trần Hưng Đạo cho quân rút về Vạn Kiếp. Thoát Hoan lại cho quân truy đuổi, dùng lực lượng kỵ binh hùng hậu bao vây Vạn Kiếp. Một lần nữa, Trần Hưng Đạo lại cho rút quân. Một bộ phận đến đóng ở Hải Đông (Hải Dương), một bộ phận khác tiến về Lạng Sơn, còn đại bộ phận rút về giữ Nam ngạn sông Hồng. Cầm cự một thời gian, đại quân rút về Thiên Trường (Nam Định). Vua và triều đình cùng rời bỏ Thăng Long về tụ tại đây.
Quân Nguyên vào thành Thăng Long, gặp phải cảnh "nhà không vườn trống", một chiến thuật của nhà Trần được nhân dân hưởng ứng. Thoát Hoan cho một toán quân truy đuổi quân Trần Hưng Đạo đến Thiên Trường. Để chặn bước tiến của địch, Trần Hưng Đạo cho đánh một trận ở sông Thiên Mạc (Hưng Yên). Tại đây Trần Bình Trọng bị bắt và tử tiết với lời nói bất hủ: "Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc".Bấy giờ 100.000 quân của Toa Đô không đánh thắng được Champa, bèn kéo quân theo đường bộ ra đánh Nghệ An để hợp quân với Thoát Hoan. Thoát Hoan liền sai Ô Mã Nhi đem quân theo đường bể tiếp ứng. Trần Hưng Đạo cho Trần Quang Khải đưa binh vào đóng ở Nghệ An chận đường Toa Đô. Toa Đô liền dùng thuyền nhỏ đưa quân theo đường biển ra Trường Yên (Ninh Bình ngày nay).
Tình hình hết sức nguy cấp. Quân địch hai gọng từ phía Bắc và dưới phía Nam, cùng đánh thốc để hợp quân. Trần Hưng Đạo phải đưa vua chạy đến Hải Dương, sau đó đến Quảng Yên rồi lại theo đường sông trở về lại Thanh Hóa. Trong hoàng tộc họ Trần có người ra đầu hàng mà điển hình là Trần ích Tắc, con thứ năm của Trần Thái Tông.
Để chặn không cho Toa Độ hội quân cùng Thoát Hoan, Trần Hưng Đạo điều động Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản đón đánh Toa Đô ở bến Hàm Tử (Hưng Yên). Toa Đô thua to phải rút về chống giữ. Đồng thời Trần Hưng Đạo phái Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản đi vòng đường bể, đánh thẳng vào quân Nguyên ở Chương Dương và tiến sát thành Thăng Long. Thoát Hoan đem quân ra chống cự không lại phải bỏ thành Thăng Long chạy về Bắc Ninh. Quân Đại Việt chiếm lại được thành Thăng Long. Để đánh dấu chiến thắng này, Trần Quang Khải làm bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư".
Trong khi ấy, Trần Hưng Đạo cho tiến quân đánh Toa Đô và Ô Mã Nhi ở Tây Kết. Toa Đô bị trúng tên chết còn Ô Mã Nhi thì chạy trốn về nước.
Nghe tin Toa Đô tử trận, Thoát Hoan vội đem quân chạy, định rút về, nhưng Trần Hưng Đạo đã đoán được ý đồ ấy, cho Phạm Ngũ Lão đợi ở Vạn Kiếp, khi quân Nguyên chạy sang thì đổ ra đánh. Quân Nguyên thua to, mất hết nửa quân số còn Thoát Hoan thì phải chun vào ống đồng cho quân đẩy chạy về. Quân Đại Việt đại thắng.
2.3. Chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ ba (1287-1288)
Thất bại nặng nề ấy làm Hốt Tất Liệt hết sức tức giận, quyết định đình việc đi đánh Nhật Bản và sai đóng thêm chiến thuyền, chuẩn bị sang đánh lại Đại Việt. Sang năm 1287 quân Nguyên ồ ạt kéo sang. Quân bộ vẫn do Thoát Hoan chỉ huy, vượt biên giới, đánh vào Lạng Sơn rồi tiến xuống phía Nam và đóng tại Vạn Kiếp. Quân thủy gồm 600 chiến thuyền lớn, do Ô Mã Nhi chỉ huy, tiến vào Đại Việt bằng đường biển và hội quân cùng Thoát Hoan ở Vạn Kiếp.
Biết đại quân như thế tất phải có nhu cầu cao về lương thực, Trần Hưng Đạo phân công Trần Khánh Dư đem quân chặn đánh đường vận lương của quân Nguyên. Trần Khánh Dư tập kích địch ở Vân Đồn, phá được thuyền lương của địch. Đợi mãi không thấy thuyền lương, Thoát Hoan xua quân tiến đến Thăng Long. Triều đình nhà Trần phải rút về Thanh Hóa. Thoát Hoan đốt phá kinh thành rồi rút quân về Vạn Kiếp. Nhưng Thoát Hoa không thể ở đây được lâu. Thiếu lương thực trầm trọng, Thoát Hoan phải rút quân. Trên đường tháo chạy, đến sông Bạch Đằng, quân của Thoát Hoan lọt vào trận địa cọc ngầm do Trần Hưng Đạo bố trí sẵn. Ô Mã Nhi bị bắt, Thoát Hoan thoát được về nước (1288).
Tuy thắng trận, nhưng trước sức mạnh của quân Nguyên vua Trần Nhân Tông cho người sang xin giảng hòa. Vua Nguyên cũng đành bằng lòng.
Vua Trần định công tội cho quan lại, ghi chép công trạng của tướng sĩ vào sách gọi là Trung Hưng thực lục. Còn những người trong hoàng tộc đã đầu hàng và hợp tác với quân Nguyên thì bị bắt buộc phải đổi họ khác. Ngoài ra để yên lòng dân chúng, vua và Thái Thượng hoàng cho đốt hết tất cả hàng biểu đi. Từ đó dân chúng yên tâm xây dựng lại đất nước.
Sự nghiệp củng cố đất nước, sự nghiệp chống xâm lăng của triều Trần đã để lại trong lòng dân chúng một niềm mến phục sâu xa. Cho nên khi Hồ Quý Ly giành ngôi nhà Trần, dù có nhiều cải cách quan trọng và tích cực, nhưng lòng người vẫn còn nhớ đến các vua Trần. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:51 am |
| | | | | II. Giai đoạn suy vong
Nội bộ họ Trần mất đoàn kết vào khoảng cuối thời trị vì của vua Minh Tông. Nhà vua vì nghe lời dèm pha, giết hại Trần Quốc Chân, một công thần và đồng thời là cha của Hoàng hậu. Từ đó mầm mống chia rẽ nổi lên.
Vua Minh Tông nhường ngôi cho Thái Tử vào năm 1329 lên làm Thượng hoàng. Thật ra Thượng hoàng vẫn nắm trọn quyền hành vì Trần Hiển Tông khi làm vua chỉ có 10 tuổi và đến năm 23 tuổi thì chết. Một người con khác của Minh Tông lên làm vua là Trần Dụ Tông.
Bắt đầu từ đây triều đại nhà Trần suy yếu dần. Vua Dụ Tông là người rượu chè, hoang phí, hay xây cung điện và đánh bạc. Các người tài giỏi của thời trước thì đã qua đời, thế hệ tiếp chưa có ai, chỉ còn lại Chu An. Thấy triều đình chính nghiêng ngả, Chu An dâng sứ xin chém 7 nịnh thần (vẫn thường được gọi là "Thất trảm sớ") nhưng vua không nghe, Chu An bèn từ quan về ở ẩn.
Trong nước loạn lạc khắp nơi. Ngoài ra, người Chăm, dưới sự lãnh đạo của vị vua tài ba Chế Bồng Nga, đòi lại đất Hóa Châu và Thuận Châu.
Từ đấy cho đến khi bị Hồ Quý Ly cướp ngôi, triều Trần lâm vào cảnh rối loạn. Quân Chăm đánh phá liên tục. Các ông vua không đủ sức bảo vệ đất nước. Một ông vua bị giết tại trận chiến (vua Trần Duệ Tông) còn quân Chăm thì "ra vào Đại Việt như chỗ không người". Trong các năm 1377, 1378 quân Chăm vào đánh tận Thăng Long, vua Trần phải bỏ thành mà chạy. Mãi đến 1389. Trong một trận quyết chiến, Trần Khát Chân giết được Chế Bồng Nga, đất nước mới tạm yên về mặt đối ngoại, nhưng trong nội bộ thì thế lực của nhà Trần đã hết. Một thế lực khác nổi lên chi phối toàn bộ việc triều chính, đó là của Lê Quý Ly.
Lê Quý Ly vốn có tổ tiên họ Hồ, người Chiết Giang (Trung Quốc) sang sinh sống ở Quỳnh Lưu. Đến ông tổ bốn đời của Quý Ly lại dời ra Thanh Hóa làm con nuôi cho một gia đình họ Lê nên đổi ra hộ Lê. Quý Ly có hai người cô đều lấy vua Trần Minh Tông, một người là mẹ của vua Trần Nghệ Tông, người kia là mẹ của Trần Duệ Tông. Dưới triều vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), Lê Quý Ly làm đến chức Khu Mật đại sứ và rất được Nghệ Tông tin dùng. Vào đời Trần Duệ Tông (1372-1377), ngoài việc bản thân vua là con người cô của Quý Ly, thì hoàng hậu cũng là em họ của Quý Ly. Uy quyền của Quý Ly vì thế nghiêng trời lệch đất.
Sau khi vua Trần Duệ Tông chết trong trận đánh với quân Chăm, con là Trần Nghiện lên nối ngôi, sử sách thường gọi là Đế Hiển (1377-1388). Nhà vua thấy Lê Qúy Ly quá chuyên quyền muốn trừ đi nhưng âm mưu bại lộ. Quý Ly bèn tâu với Thượng hoàng Nghệ Tông rằng Đế Hiển chỉ là cháu của Nghệ Tông mà lại được làm vua, xưa nay thiên hạ bỏ cháu nuôi con chứ không ai bỏ con nuôi cháu. Nghệ Tông nghe lời, giáng Trần Nghiện xuống rồi bắt thắt cổ chết và lập con út của mình lên làm vua, đó là Trần Thuật Tông (1388-1398).
Quý Ly đem con gái gả cho Thuật Tông còn bản thân thì giữ chức Phụ chính Thái sư. Vào năm 1397 Quý Ly cho xây dựng kinh đô mới ở Thanh Hóa, gọi là Tây Đô (tức là thành ) rồi ép vua phải vào đấy ở.
Năm sau, Quý Ly lại ép Trần Thuận Tông phải nhường ngôi cho con là Trần án (cũng là cháu ngoại của Quý Ly). Nhưng rồi Thuận Tông cũng bị Quý Ly bức tử chết.
Trần án chỉ mới ba tuổi, lên làm vua là Trần Thiếu Đế. Quý Ly xưng là Quốc tổ Chương hoàng đế, mặc áo màu bồ hoàng, ở cung Nhân thọ, lạm dụng nghi vệ của thiên tử, ra vào dùng đến 12 chiếc lọng vàng. Một số quan đại thần mưu loại trừ Quý Ly nhưng bất thành, bị Quý Ly trả thù, giết đến 370 người, trong số ấy có tướng Trần Khát Chân.
Vào năm 1400, Quý Ly phế Trần án và tự xưng làm vua thay cho nhà Trần. Nhà Trần chấm dứt sau 175 năm trị vì, trải qua 12 đời vua.
III. Kinh tế - Xã hội dưới đời Trần
Dưới thời Trần đã xuất hiện những sở hữu đất đai rất lớn, đó là những điền trang của quý tộc và quan lại. Nhà Trần khuyến khích việc khẩn hoang, đặt ra chức Đồn điền chánh sứ và phó sứ để phụ trách việc khẩn hoang. Vua Trần Thánh Tông chủ trương cho các vương hầu, công chúa, phò mã chiêu tập dân nghèo đi khai khẩn các vùng đất ven biển. Nhờ vậy mà những điền trang hoặc thái ấp rộng lớn đã xuất hiện. Như thái ấp của Trần Hưng Đạo ở Nam Định hoặc điền trang của nhà sư Pháp Loa, đệ nhị tổ phái thiền Trúc Lâm. Nhà sư này có đến khoảng 15.000 đệ tử, 1.000 tá điền và gần 2000 mẫu ruộng.
Công việc đê điều cũng được các vua đầu đời Trần chăm sóc, các chức Hà đê phó chánh sứ được đặt ra dưới triều vua Trần Thái Tông đã đưa công việc bảo vệ đê điều vào quy củ. Năm 1244, đê Đĩnh Nhĩ (đê Quai Vạc) được đắp dọc theo hai bên bờ sông Hồng, ngăn được nước lũ cho các đồn điền ven sông. Nhà Trần còn ra lệnh bồi thường cho nông dân nếu đê đắp lấn vào ruộng của dân. Hàng năm, vào tháng giêng quan Hà đê phải đốc thúc việc bồi đắp các đê đập cho đến mùa hè thì phải xong. Vào mùa mưa lở, quan phải thân hành đi kiểm tra tình hình đê điều và khi hữu sự thì bất phân giàu nghèo, già trẻ ai ai đều phải tham gia việc bảo vệ đê.
Công thương nghiệp đã có những bước phát triển mới. Kinh đô Thăng Long có vùng phụ cận, có chợ, có phố xá và các phường thủ công. Buôn bán được mở rộng trao đổi với nước ngoài. Hải cảng cho tàu buôn nước ngoài đến là Vân Đồn, các tàu buôn từ Trung Quốc và các nước Đông Nam á tấp nập ra vào thương cảng này.
Trong cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, nền kinh tế nước nhà bị chựng lại. Kinh thành Thăng Long bị quân thù chiếm đóng ba lần. Nhiều công trình kiến trúc bị thiêu hủy, nhiều làng xóm bị phá hoại. Sau chiến tranh, nền kinh tế được phục hồi nhanh chóng. Kinh thành được xây dựng lại, chùa chiền mọc lên | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:52 am |
| | | | | IV. Phát triển văn hóa
Văn học
Vào thời Trần, đội ngũ trí thức tiếp thu tư tưởng tu, tề, trị, bình của Nho giáo phát triển mạnh. Tư tưởng này hòa lẫn với lòng yêu nước, với hòa khí của dân tộc đã được phát huy cao độ qua ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. áng văn tiêu biểu nhất cho hào khí này là "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo. Bài hịch đã viết từ 700 năm trước nhưng tinh thần "cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh" vẫn còn làm rung động người ngày nay.
Bên cạnh bài hịch bất tử ấy, còn có nhiều tác phẩm bộc lộ khí phách dân tộc như bài thơ ứng khẩu "Tụng giá hoàn kinh sư" của Trần Quang Khải sau khi thắng trận Chương Dương, đuổi quân Nguyên ra khỏi thành Thăng Long.
Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu nỗ lực Vạn cổ thử giang sơn (Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân Hồ Thái bình nên gắng sức Non nước nọ nghìn thu).
Hoặc bài "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão:
Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu, Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu. (Ngang giáo non sông trải mấy thâu Ba quân hùng dũng khí thôn Ngưu...)
Các vua quan và văn nhân đã sáng tác rất nhiều: các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Nghệ Tông đều có làm thơ, vua Anh Tông soạn "Thủy Vân tùy bút", Trần Quang Khải có "Lạc Đạo Tập", Chu An có "Tiều ẩn thi tập", Trần Nguyên Đán có "Băng Hồ Ngọc Hán tập", Nguyễn Phi Khanh có "Nhị Khê tập", sư Huyền Quang có "Ngọc Tiên tập".
Trương Hán Siêu là người có tài văn chương và chủ trương bài xích tệ mê tín dị đoan, ông thường dùng văn chương để đả kích các tệ hại trên. Bài phú Bạch Đằng Giang của ông là một kiệt tác ca ngợi ý chí tự cường của dân tộc vùng vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
Khoa học lịch sử đã có một bước tiến đáng kể. Trước hết là bộ "Đại Việt sử ký" của Lê Văn Hưu (1230-1322), được soạn xong vào năm 1272 sau đó là các tác phẩm "Việt Nam thế chí" và "Việt Sử cương mục" của Hồ Tông Thốc (thế kỷ 14); "An Nam chí lược" của Lê Tắc; "Việt sử lược" của tác giả khuyến danh (1377). Ngoài ra còn có các văn kiện quan trọng như "Bình Thư yếu lược", "Vạn kiếp bí truyền", "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo, "Thất trảm sớ" của Chu An, "Ngọc Tĩnh liên phú" của Mạc Đĩnh Chi "Bạch Đằng Giang phú" của Trương Hán Siêu, "Việt điện u linh tập" của Lý Tế Xuyên, "Khóa hư lục" của Trần Thái Tông, "Thiền uyển tập anh" của tác giả khuyến danh... Tất cả đều là những tuyệt tác có giá trị vô cùng to lớn cho kho sử liệu của nước nhà.
Kiến trúc thời Trần không huy hoàng như thời Lý nhưng cũng có những công trình quan trọng như tháp mộ của vua Trần Nhân Tông trước chùa Phổ Minh ở Tức Mặc (Nam Định) xây năm 1310, thành ở Thanh Hóa (1397).
Âm nhạc thời Trần có chịu ảnh hưởng của Champa. Chiếc trống cơm rất thịnh hành thời ấy nguyên là nhạc khí của Champa. Đó là loại được dán hai đầu bằng cơm nghiền, được dùng để hòa cùng với dàn nhạc trong các dịp lễ Tết.
Nghệ thuật hát chèo đã manh nha từ thời này. Theo Phạm Đình Hổ trong "Vũ Trung Tùy bút" thì vào những lúc có quốc tang, người xúm đen xem chật ních không thể rước tang được, nên mới sinh ra một nhóm người chuyên đi dẹp đường. Để lôi kéo sự chú ý của đám đông, nhóm người có bổn phận đi mở đường bèn đi hát diễn trên đường, mọi người đổ xô tới xem. Như thế mới có thể rước đám tang đi. Từ đó, những bài hát của những người này phong phú hơn và được gọi là "phường chèo". | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:52 am |
| | | | | Tôn giáo
Vào đời Trần, Nho giáo phát triển song song cùng phật giáo và đồng thời Lão giáo cũng được ưa chuộng.
Phật giáo Sau khi thay nhà Lý, triều Trần tiếp tục truyền thống sùng tín đạo Phật và đồng thời phát huy lý thuyết Nho giáo như là một hệ triết lý chính trị cần thiết để cai trị đất nước. Phật giáo vẫn là một tôn giáo có thế lực nhất trong tất cả các loại tôn giáo thời ấy và có ảnh hưởng sâu đậm trong mọi tầng lớp cũng như mọi lãnh vực.
Vua Trần Thái Tông là một nhà nghiên cứu uyên thâm về Phật học, khi làm Thái Thượng hoàng, đã chú tâm nghiên cứu lý thuyết nhà Phật và là tác giả của tác phẩm cảo luận Thiền học "Khóa hư lục".
Tác phẩm "Khóa hư lục" vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay và đã được dịch ra chữ Quốc ngữ. Trong tác phẩm này Trần Thái Tông nêu lên thuyết tu hành là để diệt khổ chứ không phải vất bỏ cuộc đời để đi tu.
Người sáng lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử, phái thiền tư của Việt Nam là vị vua thứ ba của nhà Trần tức là Trần Nhân Tông. Là người đã oanh liệt thống lĩnh toàn quân và dân đánh thắng hai lần xâm lược của nhà Nguyên, đã áp dụng những chính sách "nới sức dân" khi còn tại vị, đến khi nhường ngai vàng cho con trai, người đã đi chu du khắp nơi rồi lên ở tu hẳn trên núi Yên Tử, lấy pháp danh là Trúc Lâm đại đầu đà. Nhân Tông viết rất nhiều tác phẩm phật học nhưng phần nhiều đã thất truyền. Với lý thuyết đề cao thái độ hướng tâm, đi tìm sự giác ngộ bằng cái tâm tĩnh lặng của chính mình, là "Phật tại tâm" chứ không cần gò bó khư khư theo khuôn phép giáo điều nào, nhà vua đã để lại một ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển đạo Phật và thời Trần. Chùa được xây dựng lên vô kể, các hội hè Phật giáo được tổ chức không ngừng.
Tổ thứ hai của phái thiền Trúc Lâm là Thiền sư Pháp Loa. Nhân vật này có một uy quyền đặc biệt, có cả hàng ngàn đệ tử, sở hữu gần hai ngàn mẫu ruộng và đã cho đúc ba ngàn bức tượng Phật. Đó là một hiện tượng không bình thường mà chỉ có thể giải thích được bằng sự cực thịnh của Phật giáo.
Ta có thể nói, dưới ảnh hưởng của các vị vua phật tử và các nhà thiền sư thời ấy, Phật giáo đã đạt đến mức phát triển huy hoàng của một tôn giáo, nếu không muốn nói rằng Phật giáo đã trở thành như quốc giáo vậy.
Nhưng đến cuối đời Trần, Phật giáo bị lạm dụng và bị phức tạp nhiều yếu tố mê tín, dị đoan. Đồng thời, số tăng sĩ thất học tăng lên, nhiều tệ nạn xảy ra. Các vua Trần Hiển Tông và Trần Thuận Tông phải mở các kỳ thi sát hạch kiến thức Phật học cùng họ, để bắt các tăng sĩ thất học, giả danh, phải hoàn tục.
Trong khi ấy thì giới nho sĩ lại được đào tạo theo trường lớp, tham chính qua đường thi cử gian nan, bắt đầu tấn công những tệ nạn trong giới Phật giáo. Điển hình là Trương Hán Siêu, chủ trương bài xích mê tín dị đoan. Thấy các chùa tháp mọc lên khắp nơi, ông viết bài ký châm biếm: 'Trong thiên hạ ba phần, chùa chiếm ở một phần, bỏ rứt luân thường, hao tổn của báu, ngây ngây mà chơi, ngẩn ngẩn mà theo..."
Như thế, vào cuối đời Trần, Phật giáo không những tự bản thân bị suy yếu đi mà còn Nho giáo tấn công để chiếm địa vị ưu thế trong xã hội.
Nho giáo: Khác hẳn với Phật giáo có lý thuyết thiên về nội tâm, về sự giác ngộ, về sự giải thoát con người ra khỏi bể khổ là cuộc đời, Nho giáo đòi hỏi con người phải nhập thế. Lý thuyết của Nho giáo dùng làm khuôn mẫu cho việc trị nước, cho việc tổ chức gia đình và cho việc tu thân, đã gặp môi trường thuận lợi trong xã hội Việt Nam dưới đời Trần, một xã hội đang phát triển đòi hỏi một thái độ nhập thế thiết thực.
Ngay từ dưới thời nhà Lý, Nho giáo đã được bước đầu phát triển. Các vua Lý đã mở các khoa thi nho học. Vua Lý Thánh Tông cũng đã lập Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công và 72 vị tiền hiền. Đến thời nhà Trần các khoa thi được mở đều đặn và qui củ hơn. Nhà Trần mở ra Quốc sử viện để dạy tứ thư ngũ kinh cho con cháu các nhà quý tộc, Quốc học viện để cho các nhà nho có nơi rèn luyện việc học hành. Ngoài ra các trường tư cũng được khuyến khích, như trường tư của Chu An, nơi đã đào tạo nên các nhà nho nổi tiếng như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, hoặc trường của Trần ích Tắc giúp các văn nhân ở xa đến học và cấp cơm áo cho các hàn sĩ.
Tầng lớp nhà nho được đào tạo qua các trường, các kỳ thi càng ngày càng đông tử sĩ. Hàng ngũ họ ngày càng có uy tín trong quan trường. Ta có thể kể những tên tuổi nổi tiếng như Lê Văn Hưu, Chu An, Mạc Đĩnh Chi, Hàn Thuyên, Trướng Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Hồ Tông Thốc... Họ lần lần chiếm lấy vai trò lãnh đạo của các nhà sư trong đời sống chính trị và đồng thời công kích các nhà sư ham mê nhà cửa lộng lẫy, vườn xinh cảnh đẹp, phung phí của công vào việc xây dựng chùa chiền quá nhiều và quá to, mà lại trốn tránh lao động trong chiếc áo tu hành.
Vào cuối đời Trần, Nho giáo chiếm ưu thế và đẩy phật giáo ra khỏi diễn đàn chính trị. Từ đó, các triều đại nối tiếp cũng chỉ dùng Nho giáo như khuôn mẫu cho việc trị nước chăn dân.
V. Nhân vật, di tích tiêu biểu
Nhà Trần đã để lại một dấu ấn lớn trong lịch sử Việt Nam với sự nở rộ đáng kể về số lượng danh nhân. Ta có thể phân biệt các danh nhân dưới triều Trần ra làm hai: Danh nhân thuộc họ Trần và danh nhân ngoài dòng họ Trần. Trong họ Trần, đó là Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1218-1277), Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1240-1290), Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1258-1308), Trần Hưng Đạo (12??-1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Khánh Dư (?-1285), Trần Thủ Độ (1194-1264), Trần Huyền Trân, Trần Khát Chân (?-1399), Trần Quốc Toản... Những danh nhân ngoài dòng họ Trần có thể kể như sau: Lê Văn Hưu (1230-1322), Nguyễn Thuyên, Chu An (1292-1370), Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), Phạm Ngũ Lão (1255-1320), Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Hiền, Trương Hán Siêu (?-1354), Phạm Sư Mạnh, Hồ Tông Thốc... Trong số các danh nhân ấy, xin giới thiệu một người trong dòng họ Trần là thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản và một nhân vật ngoài dòng họ Trần là Lê Văn Hưu, sử gia đầu tiên của đất nước.
Trần Quốc Toản (1266-?)
Hội nghị Bình Than là một hội nghị giữa nhà vua cùng các vương hầu, quan lại, tướng soái cao cấp của nhà Trần để bàn sách lược chống lại sự xâm lăng của Nguyên Mông. Trong không khí bừng bừng ấy, một thiếu niên tôn thất nhà Trần là Trần Quốc Toản có theo đến nhưng vì còn nhỏ (16 tuổi) nên không được dự bàn. Quốc Toản uất ức, tay đương cầm quả cam bóp bẹp ra lúc nào không biết. Khi tan hội, các vương hầu ai nấy ra về, lo việc sắm sửa binh thuyền để cự địch. Trần Quốc Toản cũng thế, về nhà cho may một lá cờ to với sáu chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh, báo ơn vua). Ông tụ họp được hơn nghìn người thân thuộc, cùng nhau chuẩn bị vũ khí để chống giặc. Đến khi xuất trận, Quốc Toản luôn đi trước, khí thế dũng mãnh, đánh chỗ nào quân địch cũng phải lùi.
Trong hai cuộc chiến thắng chống quân Nguyên (1284-1288), Trần Quốc Toản đều lập được công lớn. Trong trận Hàm Tử (1284), Quốc Toản được cử làm phó tướng cho Trần Nhật Duật, thắng trận, Quốc Toản được hân hạnh là người đưa tin về cho Trần Hưng Đạo. Đến trận Chương Dương, Quốc Toản đã cùng Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão đốc quân tử Thanh Hóa đi vòng đường bể đến tấn công bất ngờ vào quân Nguyên ở Chương Dương. Trong trận đuổi quân Thoát Hoan ra khỏi thành Thăng Long, Quốc Toản cũng góp phần đáng kể.
Không rõ vị dũng tướng thiếu niên này hy sinh trong trận nào và vào năm nào. Chỉ biết một chi tiết là khi Quốc Toản chết trận, vua Trần Nhân Tông thương khóc làm bài văn tế có nội dung như sau:
Cờ đề sáu chữ giải hờn này Lăn lóc muôn quân vẫn đánh say Công thắng quân Nguyên đà chắc trước, Từ khi cam nát ở trong tay (bản dịch)
Lê Văn Hưu (1230-1322)
Lê Văn Hưu là một học giả xuất sắc của đời Trần, và là người hậu thế xem là sử gia đầu tiên của Việt Nam. Ông quê làng Phú Lý (thôn Phủ Lý Nam, xã Thiệu Trung), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông nổi tiếng là người thông minh và học giỏi từ nhỏ. Năm 1247 nhà Trần mở khoa thi đầu tiên lấy tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhân, Thám hoa), Lê Văn Hưu đậu Bảng Nhãn, lúc đó ông mới 17 tuổi, Ông được bổ làm Kiểm pháp quan (một chức quan về hình luật), sau lại được sung chức Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sứ viện Tu giám. Thời gian này Lê Văn Hưu được vua Trần Thái Tông sai soạn bộ "Đại Việt sử ký" viết về lịch sử Việt Nam từ đời Triệu Đà (207 trước Công nguyên) đến đời Lý Chiêu Hoàng. Không rõ Lê Văn Hưu soạn bộ này từ lúc nào, chỉ biết đến năm 1272 thì hoàn tất. Bộ sử gồm tất cả ba mươi quyển, được đưa lên cho vua Trần Thánh Tông xem và được nhà vua khen ngợi.
Lê Văn Hưu có thời gian làm đến Thượng Thư bộ binh và là phó của Thượng tướng Trần Quang Khải, được phong tước Nhân Uyên hầu. Ông mất ngày 23.3 năm Nhâm Tuất (13322) thọ 92 tuổi, an táng tại xứ Mả Giòm, nay thuộc thôn Phủ Lý Nam xã Triệu Trung, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa.
Tác phẩm của Lê Văn Hưu được biết duy nhất chỉ có bộ "Đại Việt sử ký" nhưng nay đã thất truyền. Tuy thế, chính từ cơ sở chủ yếu của bộ sử này mà Ngô Sĩ Liên, một sử gia đời Lê đã soạn được bộ "Đại Việt sử ký toàn thư" có giá trị để người đời sau hiểu về cội nguồn của dân tộc.
Chùa Phổ Minh
Chùa Phổ Minh tọa lạc trên quê hương của họ Trần ở thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, cách thành phố Nam Định khoảng chừng 3 km về phía Bắc.
Các vua nhà Trần, dù bận việc triều chính ở Thăng Long nhưng luôn hướng về quê hương, và khi lên làm Thái Thượng hoàng thì thường về sống ở đấy. Vua Trần Thái Tông, sau khi đuổi quân Mông Cổ ra khỏi đất nước, liền nhường ngôi cho con (1258), về sống ở Tức Mặc, cho xây cung Trùng Quang ở đây và thăng làng Tức Mặc lên làm phủ Thiên Trường. Chùa Phổ Minh được xây vào buổi đầu của vương triều (1262) nên có quy mô khá to lớn. Chùa nằm về phía Tây của cung Trùng Quang. Chùa Phổ Minh còn được gọi là chùa Tức Mặc hay chùa Tháp. Không biết chùa được xây từ năm nào, nhưng kiến trúc quan trọng nhất của chùa là chiếc tháp thì được hoàn thành vào năm 1305.
Cấu trúc của chùa dựa theo trục cân xứng từ cổng Tam Quan qua nhà bia, tháp và đền toàn Tam Bảo. Trong toàn Tam Bảo có nhiều tượng đẹp và sinh động như tượng "Phật nhập Niết Bàn", "Văn Thù Bồ Tát", "Phổ Hiền Bồ Tát".
Hiện vật tượng trưng cho nghệ thuật khắc gỗ của đời Trần còn lưu lại đáng chú ý nhất là bốn cánh cửa bằng gỗ lim lớn (mỗi tấm cao 1m92, rộng 0m79) được lắp ráp ở nhà Bái Đường, ngay ở lối đi vào chính giữa của chùa. Bốn cánh cửa này hiện nay vẫn còn chắc chắn và nguyên vẹn dù đã trải qua 700 năm. Mỗi cánh cửa được chạm rồng công phu và tinh xảo, con rồng uốn lượn theo hình lá đề rất uyển chuyển. Tất cả hoa văn ấy được bố trí cân xứng nhau, cho nên khi đóng lại tạo nên một không gian trang trí hoàn chỉnh. Ngoài bốn cánh cửa lim ấy ra thì chùa không còn đồ gỗ nào khác của thế kỷ ấy.
Còn chiếc tháp, vì là cột kết cấu bằng gạch đá nên vẫn còn tồn tại. Tháp được xây muộn hơn chùa gần nửa thế kỷ (1305). Tháp quay mặt về hướng Nam, có hình chóp, cao 21m gồm 14 tầng. Tháp được xây trên một hồ cạn, vuông. Hồ có hành lang bao bọc, bốn phía có cửa. Để tháp hình vuông mỗi cạnh 5,2m. Tầng đế tháp cao 2,2m xây bằng đá xanh, có hình dáng bông sen nở xòa mỗi cạnh đều có cửa. Các tầng tháp đều có mái cong ở bốn phía và bốn cạnh cũng đều có cửa tò vò, tầng trên nhỏ hơn tầng dưới và cứ thế vút lên tạo nên dáng vẻ cách điệu và ước lệ của một chiếc hoa sen khổng lồ đang hé nở. Phía cao trên đỉnh tháp là một chỏm nhọn có hình bầu rượu.
Vào năm 1987 chùa và tháp đều được trùng tu lại để bảo toàn di tích kiến trúc này cho hậu thế. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:53 am |
| | | | | Khai ấn - Quốc ấn hay Miếu ấn
Nam Định, quê hương của các vua Trần. Theo kỷ yếu hội thảo khoa học: Thời Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, tổ chức tại thành phố Nam Định tháng 9 - 1995. Theo kỷ yếu hội thảo, ở địa bàn hai tỉnh Nam Định Hà Nam có 223 di tích thờ đức Thánh Trần, riêng Nam Định có 167 di tích thờ phụng gồm thành phố 17, Hải Hậu 42 Nam Trực, Trực Ninh 37 Nghĩa Hưng 31, Vụ Bản 10, Xuân Trường Giao Thuỷ 26 và ý Yên 3 di tích. Mỗi di tích là một pho sử vàng về con người và thời đại oanh liệt của lịch sử. Ngoài việc nghiên cứu của các nhà chuyên môn, mỗi di tích thường có các cụ trong ban quản lý đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ và chính quyền địa phương. Họ là những người lính, công chức, giáo viên về hưu nhưng say mê với việc bảo tồn các giá trị di sản văn hoá. Trong mỗi hòm sắc, khám thờ kia là một khối lượng không nhỏ cổ vật, cổ thư, sắc phong, được bảo vệ nghiêm ngặt theo Luật Di sản văn hoá. Với các lễ hội mang tín ngưỡng dân gian đặc sắc. Nghiên cứu văn hoá Trần, đã có bao nhà sử gia. Tôi chỉ xin nêu vài thu hoạch qua các chuyến đi điền dã và tham khảo tư liệu đã có. Theo sử sách, các sử gia xưa thường gọi nhà Trần là hào khí Đông A, chiết tự chữ Trần bao gồm chữ Đông và chữ A. Tôi còn nhớ, ngày làm tạp chí văn nghệ Hà Nam Ninh, mỗi số Tết thường dành một trang đầu giới thiệu một đôi câu đối chữ Hán, coi như một phong cách của văn nghệ Nam Định. Nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Đằng năm ấy, Chu Văn có đôi đôi câu đối , vế đầu là: “ Đông A đại phá Nguyên sư, thất bách niên tiền danh cái thế”. Nghĩa là: nhà Trần đại thắng quân Nguyên, bảy thế kỷ lưu truyền danh tiếng. Gần đây, các nhà Hán học Nam Định lại có một phát hiện mới , chữ Trần đọc là Dương, bởi mật khấn nhà Trần là : “ Dương Kinh sinh Dương Hấp; Dương Hấp sinh Dương Lý”. Dương Kinh là Trần Kinh ( cá kình ), Dương Hấp là Trần Hấp ( cá trắm ), là các vị tổ vua Trần. Các cụ còn lập luận, trạng nguyễn Nguyễn Hiền sinh ở đất Dương A cũng tức là đất vua Trần . Theo lối chiết tự trên, chữ phổ Minh, Phổ là mở rộng, Minh là sáng sủa. Tháp Phổ Minh, tháp mộ vua Trần Nhân Tông ( 1258 - 1308 ) vua thứ ba Triều Trần. Chùa Phổ Minh thờ Trúc lâm Tam tổ, ba vị tổ phái Trúc lâm thời Trần là đức Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang nên cũng gọi là chùa Tháp. Nơi đây còn tượng công chúa nhà Mạc, người đã hưng công xây dựng chùa này. Lại nói, từ lâu dân gian quen gọi là Tức Mạc, đúng ra phải gọi là Tức Mặc, là đất học hành. Bởi chữ Mặc là cái lọ mực. Thơ Phạm Sư Mạnh, danh nhân thời Trần, trong lần hộ giá vua Trần Dụ Tông ( 1341 - 1357 ), từ kinh đô Thăng Long về chầu Thượng Hoàng đã viết : Tức Mặc hành đô cảnh lạ lùng Dân vui đời thịnh lại vừa phong Gói đưa cửa Cảo thuyền trăm trượng Núi diễu sông Vường điện chín trùng... Bài thơ có nhắc địa danh Tức Mặc, cửa Cảo ( Cảo Môn ), sông Vường ( cửa Tuần Vường). Ngạn ngữ vùng này : “ Mười hai cửa bể cũng nể Tuần Vường”, là nơi sông Châu mở khẩu với sông Hồng, nơi ấy nay đặt trạm bơm Hữu Bị. Từ hương Tức Mặc, năm 1962, sau cuộc kháng chiến quân Nguyên lần thứ nhất ( 1258), lại được đổi tên thành phủ Thiên Trường, nghĩa là trời dài rộng mênh mông. Thế mới biết các nhà địa lý thời Trần đã có lý khi chọn nơi đây là là nơi phát tích của vương triều . Trên Tam quan cổng chính vào đền Trần còn khắc hai chữ Trần Miếu ( Miếu thờ các vua Trần). Nghiên cứu hai chữ Trần Miếu thấy có sự liên quan đến tục khai ấn nhà Trần . Theo các cố lão trong họ , mỗi mùa xuân xưa, vào giờ Tý ( khoảng từ 23h đến 1h sáng ) đêm 14 rạng ngày 15, rằm tháng giêng, ngày nguyên tiêu, tại kinh đô Thăng Long có lệ khai ấn . Đúng thời khắc ấy, theo lệnh đức vua, vị quan giữ ấn, gọi là quốc ấn hay ngọc tỷ ( tỷ là cái ấn ) bằng vàng, trân trọng đóng vào khuôn giấy hoa tiên, phát cho những người trong nội tộc. Việc khai ấn có ý nghĩa mở đầu một năm còn ẩn chứa sâu kín bên trong sự gia ân của vương triều trong tôn thất. Nhà Trần, từ tộc người đánh cá, thay nhà Lý ( 1226 ), thừa hưởng một nền văn hoá rực rỡ kể từ vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đã trên hai trăm năm. Để giữ nghiêm kỷ cương đối với những người trong tôn thất, thái sư Trần Thủ Độ đề ra hình phạt nghiêm ngặt, tránh sự lộng hành của con cháu trong hàng ngũ quý tộc. Lệ khai ấn mở ra, là sự gia ân của vương triều, nếu ai phạm tội, trong tay có tờ ấn vua ban, tuỳ theo lỗi mà hình phạt cũng được xem xét để dành tâm lực đối phó với giặc ngoại xâm. Tục khai ấn xưa là thế. Bây giờ theo lệ cũ vào trước lễ thượng nguyên, tại đền Trần Tức Mặc và đền Bảo Lộc, các cụ trong gia tộc cũng tổ chức khai ấn. Bởi Tức Mặc, phủ Thiên Trường là nới ở của các thượng hoàng và vua trẻ từ kinh đô về chầu, nên ấn được khắc bốn chữ : “ Trần Miếu điển tự”. Trần Miếu : miếu thờ vua Trần. Điển là khuôn thước như ta thường gọi tự điển. Tự là nơi thờ cúng. Thế là khai ấn bây giờ là khai Miếu tỷ chứ không phải là quốc tỷ, Ngọc tỷ như thuở xưa. Khai ấn là một truyền thống đẹp , không phải là thứ bùa ngải mê tín như có người nghĩ. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:55 am |
| | | | | Trần Thái Tông (1218- 1277) Trần Thái Tông là vị vua đầu tiên có công mở nghiệp nhà Trần. Tên thật là Trần Cảnh, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần 1218. Quê hương Tức Mạc, Phủ Thiên Trường nay là xã Lộc Vượng thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Theo gia phả, tổ tiên nhà Trần là Trần Kính, gốc làm nghề chài lưới, rất giỏi sông nước, ở hưương Tức Mạc, phủ Thiên Trường, Trần Kính sinh Trần Hấp.
Trần Hấp sinh Trần Lý. Trần Lý sinh Trần Thừa. Trần Thừa sinh Trần Liễu và Trần Cảnh.
Trần Cảnh rất thông minh, học giỏi,tướng mạo khôi ngô. Năm 8 tuổi được chú ruột là Trần Thủ Độ đưa vào cung hầu cận Lý Chiêu Hoàng. Sau lấy Lý Chiêu Hoàng làm vợ.
Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu 1225, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Ngày 11 tháng 12 năm 1225 Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế mở nghiệp nhà Trần. Đặt niên hiệu là Kiến Phong.
Đã 12 năm mà Hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng vẫn chưa có con để kế vị ngai vàng. Trần Thủ Độ ép Trần Thái Tông lập Thuận Thiên Công chúa, vợ Trần Liễu lên làm Hoàng Hậu. Việc này gây mối bất hoà giữa hai anh em Trần Liễu và Trần Cảnh, nhưng sau cũng giải hoà được.
Hoàng hậu Thuận Thiên sinh ra được Trần Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Ích Tắc, Trần Vĩnh.
Triều Trần vừa mới mở nghiệp đã phải đối mặt với cuộc xâm lược của đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Đế quốc Nguyên Mông đã đánh chiếm được hầu hết châu Á và rất nhiều nước châu Âu, từ bờ Thái Bình Dương đến Hắc Hải.
Ngày 12 - 12 - 1257 quân Mông Cổ do tướng Ngột Lương Hợp Thai đem hơn 10 vạn quân tràn vào biên giới xâm lược nước ta. Trần Thái Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt chống trả thắng lợi cuộc xâm lược lần thứ I của quân Mông Cổ, đem lại thanh bình, giữ vững độc lập cho đất nước.
Ngày 24 - 2 năm Mậu Ngọ 1258 vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con trưởng là Trần Hoảng để làm Thái Thượng Hoàng.
Trần Thái Tông là vị vua nhân từ, văn võ toàn tài, biết trị quốc, an dân. Ông là người ham nghiên cứu đạo Phật, làm nhiều thơ văn, là một tác gia xuất sắc nhất của nền văn học Phật giáo Việt Nam thế kỷ 13. Dưới triều đại ông quân sự, kinh tế, văn hoá, chính trị, tôn giáo đều phát triển.
Những tác phẩm chính trị của ông: Khoá hư lục - Kiến trung thường lệ - Lục thì sám hối - Khoa nghị - Quốc triều thông chế - Tựa kinh kim cương - Tựa Thiên Tông chỉ nam tự.
Ngày 11 tháng 4 năm Đinh Sửu 1277 Trần Thái Tông mất, thọ 59 tuổi trị vì 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng 19 năm.
Lại nói thêm : Niên hiệu: Kiến Trung (1225-1237). Thiên Ứng Chính Bình (1238-1350). Nguyên Phong (1251-1258).
1. TRẦN THỦ ĐỘ. Tháng Chạp năm Ất Dậu (1225) Trần Cảnh lên làm vua, tức là Trần Thái Tông phong cho Trần Thủ Độ làm Thái sư Thống quốc hành quân chinh thảo sự.
Bấy giờ vua Thái Tông mới có 8 tuổi, việc gì cũng do ở Trần Thủ Độ cả. Thủ Độ tuy là một người không có học vấn nhưng thật là một tay mưu lược, chủ ý cốt gây dựng cơ nghiệp nhà Trần cho bền chặt, cho nên dẫu việc đến đâu, cũng làm cho được. Lý Huệ Tông tuy đã xuất gia đi ở chùa rồi, nhưng Thủ Độ vẫn định bụng giết đi, cho khỏi sự lo về sau.
Một hôm, Huệ Tông ngồi nhổ cỏ ở sân chùa Chân Giáo, Thủ Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng: "Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ cái nó đi" Huệ Tông nghe thấy phủi tay nói rằng: "Nhà ngươi nói ta hiểu rồi". Được mấy hôm Thủ Độ cho người đến mời Huệ Tông, Huệ Tông biết ý, vào nhà sau thắt cổ tự tận. Thủ Độ đưa bách quan đến tế khóc xong rồi hoả táng, chôn ở tháp Bảo Quang.
Còn Thái hậu là Trần thị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa để gả cho Trần Thủ Độ (Trần Thủ Độ và Thiên Cực công chúa là hai chị em họ). Bao nhiêu những cung nhân nhà Lý thì đưa gả cho những tù trưởng các mường.
Thủ Độ đã hại Huệ Tông rồi, lại muốn trừ nốt các tôn thất nhà Lý. Đến năm Nhâm Thìn (1232) nhân làm lễ tế Tiên hậu nhà Lý ở thôn Thái Dương, làng Hoa Lâm (huyện Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh), Thủ Độ sai đào hầm, làm nhà lá ở trên, để đến khi các tôn thất nhà Lý vào đấy tế lễ, thì sụt cả xuống hố, rồi đổ đất chôn sống cả.
Thủ Độ chỉ lo làm thế nào cho ngôi nhà Trần được vững bền, cho nên không những tàn ác với nhà Lý thôi, đến luân thường ở trong nhà, cũng làm loạn cả. Chiêu Thánh hoàng hậu lấy Thái Tông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con . Thủ Độ bắt Thái Tông bỏ và giáng làm công chúa, rồi đem người chị bà Chiêu Thánh tức là vợ Trần Liễu vào làm hoàng hậu, bởi vì người chị đã có thai được 3 tháng.
Làm loạn nhân luân như thế, thì từ thượng cổ mới có là một. Trần Liễu tức giận đem quân làm loạn. Vua Thái Tông bị Thủ Độ hiếp chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến đêm trốn ra, lên ở chùa Phù Vân, trên núi Yên Tử (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên). Trần Thủ Độ biết tin ấy, đem quần thần đi đón Thái Tông về. Thái Tông không chịu về, nói rằng: "Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc". Thủ Độ nói mãi không nghe, ngoảnh lại bảo bách quan rằng: "Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy!". Nói đoạn, truyền sắp sửa xây cung điện ở chùa Phù Vân. Quốc sư ở chùa ấy thấy thế, vào van lạy Thái Tông về triều, Thái Tông bất đắc dĩ truyền xa giá về Kinh.
Được ít lâu Trần Liễu biết sức mình không làm gì nổi, bèn nhân lúc Thái Tông ngự thuyền đi chơi, giả làm người đánh cá lẻn xuống thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe tin, đến rút gươm toan giết Trần Liễu, Thái Tông can mãi mới thôi. Sau Thái Tông lấy đất Yên Phụ, Yên Đường, Yên Sinh và Yên Bang (ở huyện Đông Triều và phủ Kinh Môn, Hải Dương) cho Trần Liễu làm thái ấp và phong cho làm An Sinh Vương.
Thủ Độ đã hại hết cả dòng dõi nhà Lý, lại muốn cho hậu thế không ai nhớ đến họ Lý nữa mới nhân vì Tổ nhà Trần tên là Lý, bắt trong nước ai là họ Lý đều phải cải là họ Nguyễn.
Thủ Độ thật là người gian ác đối với nhà Lý, nhưng lại là một người đại công thần của nhà Trần. Một tay cáng đáng bao nhiêu trọng sự, giúp Thái Tông bình phục được giặc giã trong nước và chỉnh đốn lại mọi việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống cự với Mông Cổ, khỏi phải làm nô lệ những kẻ hùng cường.
2. VIỆC ĐÁNH DẸP GIẶC GIÃ. Nước An Nam từ khi vua Cao Tông nhà Lý thất chính, trong nước chỗ nào cũng có giặc giã. Ở mạn Quốc Oai thì có giặc Mường làm loạn, ở Hồng Châu thì có Đoàn Thượng chiếm giữ đất Đường Hào, tự xưng làm vua. Ở Bắc Giang thì có Nguyễn Nộn độc lập xưng vương ở làng Phù Đổng. Ấy là một nước mà chia ra làm mấy giang sơn.
Khi Trần Thủ Độ đã thu xếp xong việc cướp ngôi nhà Lý rồi, mới đem quân đi đánh dẹp. Trước lên bình giặc Mường ở Quốc Oai, sau về đánh bọn Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Nhưng thế lực hai người ấy mạnh lắm, Trần Thủ Độ đánh không lại, bèn chia đất phong cho hai người làm vương để giảng hoà.
Năm Mậu Tý (1228) Nguyễn Nộn đem quân đánh Đoàn Thượng, chiếm giữ lấy đất Đường Hào, thanh thế lừng lẫy. Trần Thủ Độ đã lấy làm lo. Nhưng chỉ được mấy tháng thì Nguyễn Nộn chết. Từ đó các châu huyện trong nước lại thống hợp làm một.
3. VIỆC CAI TRỊ. Cứ theo phép nhà Lý thì làng nào có bao nhiêu người đi làm quan văn, quan võ, thơ lại, quân lính, hoàng nam, lung lão, tàn tật và những người đến ở ngụ cư, hay là những người xiêu lạc đến ở trong làng, thì xã quan phải khai vào cả quyển sổ gọi là trướng tịch. Ai có quan tước mà có con được thừa ấm thì con lại được vào làm quan, còn những người giàu có, mà không có quan tước thì đời đời cứ phải đi lính. Thái Tông lên làm vua phải theo phép ấy, cho nên đến năm Mậu Tý (1288) lại sai quan vào Thanh Hoá làm lại trướng tịch theo như lệ nhà Lý ngày trước.
Năm Nhâm Dần (1242) Thái Tông chia nước Nam ra làm 12 lộ. Mỗi lộ đặt quan cai trị là An Phủ sứ chánh phó 2 viên. Dưới An Phủ sứ có quan Đại tư xã và Tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên thì làm Đại tư xã, lục phẩm trở xuống thì làm Tiểu tư xã, mỗi viên cai trị, hoặc hai xã, hoặc ba bốn xã. Mỗi xã lại có một viên xã quan là Chánh sử giám.
Lộ nào cũng có quyển dân tịch riêng của lộ ấy.
4. VIỆC THUẾ MÁ. Người trong nước phân ra từng hạng: con trai từ 18 tuổi thì vào hạng Tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi vào hạng Đại hoàng nam. Còn 60 tuổi trở lên thì vào Lão hạng.
Thuế thân: Thuế thân thời bấy giờ tùy theo số ruộng mà đánh, ai có một hai mẫu thì phải đóng một năm một quan tiền thuế thân; ai có ba bốn mẫu thì đóng hai quan; ai có năm mẫu trở lên thì đóng ba quan. Ai không có mẫu nào thì không phải đóng thuế.
Thuế ruộng: Thuế ruộng thì đóng bằng thóc, cứ mỗi một mẫu thì chủ điền phải đóng 100 thăng thóc.
Còn như ruộng công, thì có sách chép rằng đời nhà Trần có hai thứ ruộng công, mỗi thứ phân làm ba hạng. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:55 am |
| | | | | 1. Một thứ gọi là ruộng quốc khố: Hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc; hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch; hạng ba mỗi mẫu 3 thạch.
2. Một thứ gọi là Thác điền: Hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thóc; hạng nhì ba mẫu lấy 1 thạch; hạng ba 4 mẫu lấy một thạch
Còn ruộng ao của công dân thì mỗi mẫu lấy 3 thăng thóc thuế.
Ruộng muối phải đóng bằng tiền.
Các thứ thuế: Có sách chép rằng nhà Trần đánh cả thuế trầu cau, thuế hương yên tức, và tôm, cá, rau, quả gì cũng đánh thuế cả.
Còn như vàng bạc tiêu dùng trong nước thì tiêu dùng bằng phân, lượng đã đúc sẵn, có hiệu nhà nước. Khi nào đóng nộp cho vua quan, thì một tiền là 70 đồng, mà thường tiêu với nhau thì một tiền chỉ có 69 đồng mà thôi.
5. VIỆC ĐẮP ĐÊ. Nước Nam ta ở mạn đường ngược thì lắm núi, mà ở mạn trung châu thì nhiều sông ngòi, cho nên đến mùa lụt nước ngàn, nước lũ chảy về ngập mất cả đồng điền. Vì vậy năm Mậu Thân (1244) Thái Tông sai quan ở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông Cái (Hồng Hà), gọi là đỉnh Nhĩ Đê. Lại đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà đê chánh phó sứ hai viên. Hễ chỗ nào mà đê đắp vào ruộng của dân, thì nhà nước cứ chiếu theo giá ruộng mà bồi thường cho chủ ruộng.
6. VIỆC HỌC HÀNH. Năm Nhâm Thìn (1232) mở khoa thi Thái học sinh (thi Tiến sĩ). Từ đời nhà Lý cũng đã có thi Nho sĩ, nhưng chỉ thi Tam Trường mà thôi, đến bây giờ mới có khoa thi Thái học sinh, chia ra thứ bậc, làm ba giáp để định cao thấp. Đến khoa thi năm Đinh Vị (1247) lại đặt ra Tam khôi: Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Khoa thi năm Đinh Vị này có Lê Văn Hưu là người làm sử nước Nam trước hết cả, đỗ bảng nhãn. Năm ấy lại có mở khoa thi Tam giáo: Nho, Thích, Lão, ai hơn thì đỗ khoa Giáp, ai kém thì đỗ khoa Ất.
Xem như thế thì sự học vấn đời nhà Trần cũng rộng: Nho, Thích, Lão cũng trọng cả. Nhưng không rõ cách học hành và phép thi cử bấy giờ ra thế nào, bởi vì chỗ này sử chỉ nói lược qua mà thôi.
Năm Quý Mùi (1253) lập Quốc học viện để giảng Tứ thư ngũ kinh, và lập giảng võ đường để luyện tập võ nghệ.
7. PHÁP LUẬT. Sử chép rằng năm Giáp Thìn (1244) vua Thái Tông có định lại các luật pháp, nhưng không nói rõ định ra thế nào. Xét trong sách "Lịch triều hiến chương" của ông Phan Huy Chú thì phép nhà Trần đặt ra là hễ những người phạm tội trộm cắp đều phải chặt tay, chặt chân hay là cho voi giày.
Xem như thế thì hình luật lúc bấy giờ nặng lắm.
8. QUAN CHẾ. Quan chế đời nhà Trần cũng sửa sang lại cả. Bấy giờ có Tam công, Tam thiếu, Thái uý, Tư mã, Tư đồ, Tư không làm văn võ đại thần. Tể tướng thì có tả hữu tướng quốc, thủ tướng, tham chi.
Văn giai nội chức thì có các bộ Thượng thư, Thị lang, Lang trung, Viên ngoại, Ngự sử, v.v... Ngoại chức, thì có An phủ sứ, Chi phủ, Thông phán, Thiên phán, v.v....
Còn Võ giai Nội chức, thì có Phiêu kỵ Thượng tướng quân, Cẩm vệ thượng tướng quân, Kim Ngô đại tướng quân, Võ vệ đại tướng quân, Phó đô tướng quân v.v... Ngoại chức thì có kinh lược sứ, phòng ngự sứ, thủ ngự sứ, quan sát sứ, Đô hộ, Đô thống, Tổng quản. v.v....
Quan lại đời bấy giờ, cứ 10 năm thì được thăng lên một hàng, và 15 năm mới được lên một chức.
Đời nhà Trần, tuy quan lại thì nhiều, nhưng vua quan có ý thân cận với nhau lắm. Hễ khi nào vua đãi yến, các quan uống rượu xong rồi, thì ra dắt tay nhau mà múa hát, không có giữ lễ phép nghiêm khắc như những đời sau.
9. BINH CHẾ. Từ khi Thái Tông lên ngôi làm vua thì việc binh lính một ngày một chỉnh đốn thêm. Bao nhiêu người dân tráng trong nước đều phải đi lính cả. Các thân vương ai cũng được quyền mộ tập quân lính. Vì cớ ấy cho nên đến sau người Mông Cổ sang đánh, nước Nam ta có hơn 20 vạn quân để chống với quân nghịch.
Trừ những giặc nhỏ mọn ở trong nước không kể chi, nước Nam ta bấy giờ ở phía nam có Chiêm Thành, phía bắc có quân Mông Cổ sang quấy nhiễu cho nên phải đánh dẹp luôn.
10. VIỆC ĐÁNH CHIÊM THÀNH. Từ khi Thái Tông lên làm vua, nước Chiêm Thành đã sang cống tiến, nhưng thường vẫn cứ sang cướp phá, và cứ đòi lại đất cũ. Thái Tông lấy làm tức giận, bèn sửa soạn đi đánh Chiêm Thành. Năm Nhâm Tý (1252) ngài ngự giá đi đánh, bắt được vương phi nước Chiêm tên là Bố Gia La và rất nhiều quân dân nước ấy.
11. QUÂN MÔNG CỔ SANG XÂM PHẠM ĐẤT AN NAM. Trong khi nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên làm vua ở An Nam, thì nhà Tống bên Tàu bị người Mông Cổ đánh phá.
Nguyên ở phía bắc nước Tàu có một dân tộc gọi là Mông Cổ, ở vào khoảng thượng lưu sông Hắc Long Giang (Amour). Người Mông Cổ hung tợn, mà lại có tính hiếu chiến, người nào cưỡi ngựa cũng giỏi, và bắn tên không ai bằng. Binh lính thường là quân kị, mà xếp đặt thành cơ nào đội ấy, thật là có thứ tự, và người nào cũng tinh nghề chiến đấu.
Bởi tính chất và binh pháp của người Mông Cổ như thế, cho nên Thiết Mộc Chân (Témoudjine) tức là Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan), miếu hiệu là Nguyên Thái Tổ, mới chiếm giữ được cả vùng Trung Á, cùng đất Ba Tư, sang đến phía đông bắc Âu-La-Ba. Sau Mông Cổ lại lấy được nước Tây Hạ, phía tây bắc nước Tàu, dứt được nước Kim và tràn sang đến nước Triều Tiên (Cao Ly).
Thành Cát Tư Hãn mất, người con thứ 3 là A Loa Đài (Agotai) lên làm vua tức là Nguyên Thái Tông. A Loa Đài truyền cho con là Qúi Do (Gouyouk) tức là Nguyên Định Tông. Qúi Do làm vua được non ba năm thì mất, ngôi vua Mông Cổ lại về chi khác. Người em con chú là Mông Kha (Mong Ké) lên làm vua, tức là Nguyên Hiếu Tông.
Mông Kha sai hai em là Hạt Lỗ (Houlagen) sang kinh lý việc nước Ba Tư, và Hốt Tất Liệt (Koubilai) sang đánh nhà Tống bên Tàu. Trong khi quân Mông Cổ đang đánh nhà Tống thì Mông Kha mất, Hốt Tất Liệt phải rút binh về lên ngôi vua tức là Nguyên Thế tổ. Hốt Tất Liệt lên làm vua rồi đổi quốc hiệu là Nguyên.
Hốt Tất Liệt lại sang đánh nhà Tống. Từ đó cả nước Tàu thuộc về Mông Cổ cai trị.
Khi Mông Kha hãy còn, Hốt Tất Liệt đem quân sang đánh nhà Tống, có sai một đạo quân đi đánh lấy nước Đại Lý (thuộc tỉnh Vân Nam bây giờ) tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần Thái Tông về thần phục Mông Cổ.
Thái Tông không những không chịu, lại bắt giam sứ Mông Cổ, rồi sai Trần Quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía bắc. Bấy giờ là năm Đinh Tỵ (1257).
Ngột Lương Hợp Thai bèn từ Vân Nam đem quân sang địa phận An Nam, đi đường sông Thao Giang, tỉnh Hưng Hoá, xuống đánh Thăng Long.
Trần Quốc Tuấn ít quân đánh không nổi, lùi về đóng ở Sơn Tây. Quân Mông Cổ kéo tràn xuống đến sông Thao. Thái Tông phải ngự giá thân chinh, nhưng đánh không được, chạy về đóng ở sông Hồng Hà. Quân Mông Cổ tiến lên đánh đuổi quân nhà Trần đến Đông Bộ đầu (Phía đông sông Nhị Hà ở hạt huyện Thượng Phúc). Thái Tông phải bỏ kinh đô, chạy về đóng ở sông Thiên Mạc (về hạt huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên).
Quân Mông Cổ vào thành Thăng Long, thấy ba người sứ Mông Cổ còn phải trói, giam ở trong ngục, đến khi cởi trói ra thì một người chết. Ngột Lương Hợp Thai thấy thế tức giận quá, cho quân ra cướp phá, giết cả nam phụ lão ấu ở trong thành.
Bấy giờ thế nguy. Thái Tông ngự thuyền đến hỏi Thái uý là Trần Nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói gì cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái Tông lại đi đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin bệ hạ đừng lo!".
Thái Tông nghe thấy Thủ Độ nói cứng cỏi như thế, trong bụng mới yên.
Được ít lâu quân Mông Cổ ở nước Nam không quen thuỷ thổ xem ra bộ mệt mỏi. Thái Tông mới tiến binh lên đánh ở Đông Bộ đầu. Quân Mông Cổ thua chạy về đến trại Quy Hoá, lại bị chủ trại ở đấy chiêu tập thổ dân ra đón đánh. Quân Mông Cổ thua to, rút về Vân Nam, đi đường mỏi mệt, đến đâu cũng không cướp phá gì cả, cho nên người ta gọi là giặc Phật.
Quân Mông Cổ tuy thua phải rút về, nhưng chẳng bao lâu sau Mông Cổ dứt được nhà Tống, lấy được nước Tàu, rồi có ý muốn bắt vua nước Nam ta sang chầu ở Bắc Kinh, bởi vậy lại sai sứ sang đòi lệ cống. Vua Thái Tông sai Lê Phụ Trần sang sứ xin cứ ba năm sang cống một lần.
Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258). Thái Tông nhường ngôi cho Thái Tử là Trần Hoảng, để dạy bảo mọi việc về cách trị nước, và để phòng ngày sau anh em không tranh nhau. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Lịch sử Việt Nam (Tổng hợp) Sat Nov 01, 2008 11:56 am |
| | | | | Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nước.1. Một thứ gọi là ruộng quốc khố: Hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc; hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch; hạng ba mỗi mẫu 3 thạch.
2. Một thứ gọi là Thác điền: Hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thóc; hạng nhì ba mẫu lấy 1 thạch; hạng ba 4 mẫu lấy một thạch
Còn ruộng ao của công dân thì mỗi mẫu lấy 3 thăng thóc thuế.
Ruộng muối phải đóng bằng tiền.
Các thứ thuế: Có sách chép rằng nhà Trần đánh cả thuế trầu cau, thuế hương yên tức, và tôm, cá, rau, quả gì cũng đánh thuế cả.
Còn như vàng bạc tiêu dùng trong nước thì tiêu dùng bằng phân, lượng đã đúc sẵn, có hiệu nhà nước. Khi nào đóng nộp cho vua quan, thì một tiền là 70 đồng, mà thường tiêu với nhau thì một tiền chỉ có 69 đồng mà thôi.
5. VIỆC ĐẮP ĐÊ. Nước Nam ta ở mạn đường ngược thì lắm núi, mà ở mạn trung châu thì nhiều sông ngòi, cho nên đến mùa lụt nước ngàn, nước lũ chảy về ngập mất cả đồng điền. Vì vậy năm Mậu Thân (1244) Thái Tông sai quan ở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông Cái (Hồng Hà), gọi là đỉnh Nhĩ Đê. Lại đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà đê chánh phó sứ hai viên. Hễ chỗ nào mà đê đắp vào ruộng của dân, thì nhà nước cứ chiếu theo giá ruộng mà bồi thường cho chủ ruộng.
6. VIỆC HỌC HÀNH. Năm Nhâm Thìn (1232) mở khoa thi Thái học sinh (thi Tiến sĩ). Từ đời nhà Lý cũng đã có thi Nho sĩ, nhưng chỉ thi Tam Trường mà thôi, đến bây giờ mới có khoa thi Thái học sinh, chia ra thứ bậc, làm ba giáp để định cao thấp. Đến khoa thi năm Đinh Vị (1247) lại đặt ra Tam khôi: Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Khoa thi năm Đinh Vị này có Lê Văn Hưu là người làm sử nước Nam trước hết cả, đỗ bảng nhãn. Năm ấy lại có mở khoa thi Tam giáo: Nho, Thích, Lão, ai hơn thì đỗ khoa Giáp, ai kém thì đỗ khoa Ất.
Xem như thế thì sự học vấn đời nhà Trần cũng rộng: Nho, Thích, Lão cũng trọng cả. Nhưng không rõ cách học hành và phép thi cử bấy giờ ra thế nào, bởi vì chỗ này sử chỉ nói lược qua mà thôi.
Năm Quý Mùi (1253) lập Quốc học viện để giảng Tứ thư ngũ kinh, và lập giảng võ đường để luyện tập võ nghệ.
7. PHÁP LUẬT. Sử chép rằng năm Giáp Thìn (1244) vua Thái Tông có định lại các luật pháp, nhưng không nói rõ định ra thế nào. Xét trong sách "Lịch triều hiến chương" của ông Phan Huy Chú thì phép nhà Trần đặt ra là hễ những người phạm tội trộm cắp đều phải chặt tay, chặt chân hay là cho voi giày.
Xem như thế thì hình luật lúc bấy giờ nặng lắm.
8. QUAN CHẾ. Quan chế đời nhà Trần cũng sửa sang lại cả. Bấy giờ có Tam công, Tam thiếu, Thái uý, Tư mã, Tư đồ, Tư không làm văn võ đại thần. Tể tướng thì có tả hữu tướng quốc, thủ tướng, tham chi.
Văn giai nội chức thì có các bộ Thượng thư, Thị lang, Lang trung, Viên ngoại, Ngự sử, v.v... Ngoại chức, thì có An phủ sứ, Chi phủ, Thông phán, Thiên phán, v.v....
Còn Võ giai Nội chức, thì có Phiêu kỵ Thượng tướng quân, Cẩm vệ thượng tướng quân, Kim Ngô đại tướng quân, Võ vệ đại tướng quân, Phó đô tướng quân v.v... Ngoại chức thì có kinh lược sứ, phòng ngự sứ, thủ ngự sứ, quan sát sứ, Đô hộ, Đô thống, Tổng quản. v.v....
Quan lại đời bấy giờ, cứ 10 năm thì được thăng lên một hàng, và 15 năm mới được lên một chức.
Đời nhà Trần, tuy quan lại thì nhiều, nhưng vua quan có ý thân cận với nhau lắm. Hễ khi nào vua đãi yến, các quan uống rượu xong rồi, thì ra dắt tay nhau mà múa hát, không có giữ lễ phép nghiêm khắc như những đời sau.
9. BINH CHẾ. Từ khi Thái Tông lên ngôi làm vua thì việc binh lính một ngày một chỉnh đốn thêm. Bao nhiêu người dân tráng trong nước đều phải đi lính cả. Các thân vương ai cũng được quyền mộ tập quân lính. Vì cớ ấy cho nên đến sau người Mông Cổ sang đánh, nước Nam ta có hơn 20 vạn quân để chống với quân nghịch.
Trừ những giặc nhỏ mọn ở trong nước không kể chi, nước Nam ta bấy giờ ở phía nam có Chiêm Thành, phía bắc có quân Mông Cổ sang quấy nhiễu cho nên phải đánh dẹp luôn.
10. VIỆC ĐÁNH CHIÊM THÀNH. Từ khi Thái Tông lên làm vua, nước Chiêm Thành đã sang cống tiến, nhưng thường vẫn cứ sang cướp phá, và cứ đòi lại đất cũ. Thái Tông lấy làm tức giận, bèn sửa soạn đi đánh Chiêm Thành. Năm Nhâm Tý (1252) ngài ngự giá đi đánh, bắt được vương phi nước Chiêm tên là Bố Gia La và rất nhiều quân dân nước ấy.
11. QUÂN MÔNG CỔ SANG XÂM PHẠM ĐẤT AN NAM. Trong khi nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên làm vua ở An Nam, thì nhà Tống bên Tàu bị người Mông Cổ đánh phá.
Nguyên ở phía bắc nước Tàu có một dân tộc gọi là Mông Cổ, ở vào khoảng thượng lưu sông Hắc Long Giang (Amour). Người Mông Cổ hung tợn, mà lại có tính hiếu chiến, người nào cưỡi ngựa cũng giỏi, và bắn tên không ai bằng. Binh lính thường là quân kị, mà xếp đặt thành cơ nào đội ấy, thật là có thứ tự, và người nào cũng tinh nghề chiến đấu.
Bởi tính chất và binh pháp của người Mông Cổ như thế, cho nên Thiết Mộc Chân (Témoudjine) tức là Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan), miếu hiệu là Nguyên Thái Tổ, mới chiếm giữ được cả vùng Trung Á, cùng đất Ba Tư, sang đến phía đông bắc Âu-La-Ba. Sau Mông Cổ lại lấy được nước Tây Hạ, phía tây bắc nước Tàu, dứt được nước Kim và tràn sang đến nước Triều Tiên (Cao Ly).
Thành Cát Tư Hãn mất, người con thứ 3 là A Loa Đài (Agotai) lên làm vua tức là Nguyên Thái Tông. A Loa Đài truyền cho con là Qúi Do (Gouyouk) tức là Nguyên Định Tông. Qúi Do làm vua được non ba năm thì mất, ngôi vua Mông Cổ lại về chi khác. Người em con chú là Mông Kha (Mong Ké) lên làm vua, tức là Nguyên Hiếu Tông.
Mông Kha sai hai em là Hạt Lỗ (Houlagen) sang kinh lý việc nước Ba Tư, và Hốt Tất Liệt (Koubilai) sang đánh nhà Tống bên Tàu. Trong khi quân Mông Cổ đang đánh nhà Tống thì Mông Kha mất, Hốt Tất Liệt phải rút binh về lên ngôi vua tức là Nguyên Thế tổ. Hốt Tất Liệt lên làm vua rồi đổi quốc hiệu là Nguyên.
Hốt Tất Liệt lại sang đánh nhà Tống. Từ đó cả nước Tàu thuộc về Mông Cổ cai trị.
Khi Mông Kha hãy còn, Hốt Tất Liệt đem quân sang đánh nhà Tống, có sai một đạo quân đi đánh lấy nước Đại Lý (thuộc tỉnh Vân Nam bây giờ) tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần Thái Tông về thần phục Mông Cổ.
Thái Tông không những không chịu, lại bắt giam sứ Mông Cổ, rồi sai Trần Quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía bắc. Bấy giờ là năm Đinh Tỵ (1257).
Ngột Lương Hợp Thai bèn từ Vân Nam đem quân sang địa phận An Nam, đi đường sông Thao Giang, tỉnh Hưng Hoá, xuống đánh Thăng Long.
Trần Quốc Tuấn ít quân đánh không nổi, lùi về đóng ở Sơn Tây. Quân Mông Cổ kéo tràn xuống đến sông Thao. Thái Tông phải ngự giá thân chinh, nhưng đánh không được, chạy về đóng ở sông Hồng Hà. Quân Mông Cổ tiến lên đánh đuổi quân nhà Trần đến Đông Bộ đầu (Phía đông sông Nhị Hà ở hạt huyện Thượng Phúc). Thái Tông phải bỏ kinh đô, chạy về đóng ở sông Thiên Mạc (về hạt huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên).
Quân Mông Cổ vào thành Thăng Long, thấy ba người sứ Mông Cổ còn phải trói, giam ở trong ngục, đến khi cởi trói ra thì một người chết. Ngột Lương Hợp Thai thấy thế tức giận quá, cho quân ra cướp phá, giết cả nam phụ lão ấu ở trong thành.
Bấy giờ thế nguy. Thái Tông ngự thuyền đến hỏi Thái uý là Trần Nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói gì cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái Tông lại đi đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin bệ hạ đừng lo!".
Thái Tông nghe thấy Thủ Độ nói cứng cỏi như thế, trong bụng mới yên.
Được ít lâu quân Mông Cổ ở nước Nam không quen thuỷ thổ xem ra bộ mệt mỏi. Thái Tông mới tiến binh lên đánh ở Đông Bộ đầu. Quân Mông Cổ thua chạy về đến trại Quy Hoá, lại bị chủ trại ở đấy chiêu tập thổ dân ra đón đánh. Quân Mông Cổ thua to, rút về Vân Nam, đi đường mỏi mệt, đến đâu cũng không cướp phá gì cả, cho nên người ta gọi là giặc Phật.
Quân Mông Cổ tuy thua phải rút về, nhưng chẳng bao lâu sau Mông Cổ dứt được nhà Tống, lấy được nước Tàu, rồi có ý muốn bắt vua nước Nam ta sang chầu ở Bắc Kinh, bởi vậy lại sai sứ sang đòi lệ cống. Vua Thái Tông sai Lê Phụ Trần sang sứ xin cứ ba năm sang cống một lần.
Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258). Thái Tông nhường ngôi cho Thái Tử là Trần Hoảng, để dạy bảo mọi việc về cách trị nước, và để phòng ngày sau anh em không tranh nhau.
Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nước. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Trang 2 trong tổng số 2 trang | Chuyển đến trang : 1, 2 | | ::. | Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|