Cân bằng thị trường đơn giản
Harvey B. King
Dịch viên: Lê Thủy
A. Giới thiệuĐã đến lúc phải xét đến các mô hình cung và cầu lao động của chúng ta, kết hợp chúng với nhau để thấy được yếu tố nào quyết định các mức lương cân bằng trong thị trường lao động. Những mức lương cân bằng này chịu tác động như thế nào của những thay đổi trong các biến chính sách hay những cú sốc khác nhau đối với nền kinh tế.
Phân tích thị trường cơ bản cũng tương tự như phân tích bạn đã học trong lớp 100 hay 201 về các thị trường nói chung. Song trong các thị trường lao động các phân tích này phức tạp hơn nhiều.
· Có một bộ phận lớn những người đang đi tìm việc, sẵn sàng chấp nhận mức lương cân bằng hiện tại song không thể tìm được việc. Số người này tạo nên một con số thất nghiệp khá lớn.
<BLOCKQUOTE>
o Như đã đề cập trước đây, chúng ta sẽ dành phần lớn nội dung nghiên cứu về thất nghiệp cho lớp 202 hay nhất là lớp 302.</BLOCKQUOTE>
· Các việc làm thường có thể kéo dài trong nhiều năm. Thế nên sẽ phát triển những mối quan hệ lâu dài giữa chủ và người làm thuê. Những mối quan hệ này có thể ngầm thể hiện hay thể hiện một cách rõ ràng trong các hợp đồng được ký kết.
<BLOCKQUOTE>
o Chúng ta sẽ tìm hiểu tác động của những mối quan hệ này trong phần 6.</BLOCKQUOTE>
· Các công việc có xu hướng có những khía cạnh phi tiền tệ có thể tác động đến phương thức trả lương.
<BLOCKQUOTE>
o Điều này có thể bao gồm tất cả mọi thứ từ các khía cạnh xã hội của công ty đến nguy cơ tử vong, những yêu cầu giáo dục. v.v.
o Chúng ta sẽ xem xét những vấn đề này trong phần 7 và 8.</BLOCKQUOTE>
· Mặc dù chúng ta sẽ thường nói đến một thị trường lao động "nói chung" song trong thực tế có hàng nghìn các thị trường lao động khác nhau (thị trường của các giáo sư, giáo viên, các nhà quản trị, các giám đốc, v.v.). Những thị trường này liên quan mật thiết với nhau, thay thế cũng như bổ sung lẫn nhau.
· Điểm cuối cùng là thông thường các thị trường lao động cần những khoảng thời gian tương đối dài để thích nghi với mỗi một mức cân bằng mới.
<BLOCKQUOTE>
o Các công ty có thể cần có thời gian để lắp đặt các trang thiết bị, công nghệ mới và để đào tạo nhân công. Bởi vậy, phải mất khá nhiều thời gian để có thể điều chỉnh, thích nghi lực lượng lao động của mình.
o Các công nhân có thể cần có thời gian để thu thập thông tin về những loại hình công việc sẵn có trên thị trường, để tự đào tạo/giáo dục và chuyển sang một công việc khác ở những lĩnh vực khác
o Kết quả là các thị trường lao động có thể đi qua những chu kỳ phức tạp, những chu kỳ cần phải mất đến hàng năm để điều chỉnh.
o Chúng ta sẽ xem xét điều này vào cuối những phần này.</BLOCKQUOTE>
Cho đến nay, chúng ta đã xem xét cung lao động của cá nhân các hộ gia đình hay cầu lao động của từng công ty đơn lẻ.
· Tuy nhiên, chúng ta thường quan tâm đếm cung hay cầu lao động của toàn thị trường.
· Mức cung lao động trên thị trường ngang bằng với tổng cung lao động của cá nhân các hộ gia đình.
<BLOCKQUOTE>
o Nếu như vậy, chúng ta sẽ thấy những thay đổi trong các mức lương tạo ra
hai phản ứng.
o Các mức lương cao hơn tạo ra những thay đổi trong cung lao động của các hộ gia đình tham gia vào thị trường lao động (tổng thay đổi là không xác định). Những thay đổi này dẫn đến nhiều hộ gia đình tham gia vào thị trường lao động hơn.
o Chúng ta thấy rằng tổng cung có xu hướng tăng khi lương tăng. Tác động của lương đến tổng cung mới là quan trọng.</BLOCKQUOTE>
· Đường cầu lao động thị trường ngang bằng mức tổng hợp của tất cả các đường cầu lao động dốc xuống dưới của từng công ty.
<BLOCKQUOTE>
o Cứ một đợt tăng lương thì lại dẫn đến một lần giảm cầu lao động của cá nhân từng công ty. Thêm vào đó là một số lượng công ty có tiềm năng giảm khi một số công ty bị phá sản do chi phí hoạt động cao hơn.
o Cuối cùng, chúng ta thấy một sự suy giảm trong tổng cầu lao động thị trường.</BLOCKQUOTE>
B. Mức cân bằng Cạnh tranhMức cân bằng cạnh tranh xảy ra khi mức cầu lao động bằng mức cung lao động như thể hiện trong Hình 1 dưới đây.
· Chúng ta đang bỏ qua tỷ lệ thất nghiệp kèm theo.
· Nếu các mức lương là quá cao thì mức dư cung lao động sẽ gây áp lực giảm lương cho đến khi thị trường lao động hết dư cung lao động.
· Lưu ý rằng áp lực này có thể mất một khoảng thời gian dài để có thể tác động đến toàn hệ thống!
Hình 1 Mức cân bằng Thị trườngMột công ty chấp nhận mức lương mà thị trường đưa ra.
· Thế nên chúng ta giả định rằng một công ty muốn thuê bao nhiêu lao động thì có thể thuê được bấy nhiêu lao động tại mức lương thị trường.
· Hình 2 dưới đây thể hiện thị trường và các thị trường lao động của công ty.
Hình 2 Mức Cân bằng Công ty và Thị trườngMức lương thị trường được quyết định bởi cầu và cung thị trường trong đồ thị bên trái.
· Mức lương này tạo ra một mức lương W* ngoại sinh cho mỗi công ty và đường SLR nằm ngang như thể hiện trong đồ thị ở Hình 1.
· Một đường nằm ngang gợi ý rằng công ty có thể thuê bao nhiêu nhân công tuỳ thích tại mức lương thị trường.
· Bởi vậy, nếu công ty có lý do để tăng mức cầu lao động của mình thì cuối cùng nó cũng đủ khả năng để thuê số lao động mà nó muốn tại mức lương thị trường.
· Tuy nhiên, về mặt ngắn hạn, nếu một công ty tăng cầu lao động thì công ty đó có thể sẽ không thuê được đủ số lao động mong muốn như trong trường hợp dài hạn.
· Lao động có thể mất nhiều thời gian để biết về công việc mới, chuyển việc và đào tạo lại.
· Bởi vậy, về mặt ngắn hạn công ty có thể phải dựa trên giờ làm thêm, v.v. để tăng cung lao động. Lúc đó ta sẽ được đường cung lao động dốc lên phía trên S0 - Bởi vậy, cầu tăng có thể
tạm thời đẩy mức lương tăng theo.
· Tuy nhiên, dần dần mức lương trên trung bình sẽ thu hút nhiều nhân công hơn đến làm việc cho công ty này. Điều này được thể hiện bằng sự di chuyển của cung lao động ngắn hạn đến S1.
· Điều này cuối cùng sẽ đầy mức lương quay trở lại mức ban đầu W*.
· Bởi vậy, nếu các công việc tại công ty này cũng tương tự như ở những chỗ khác thì mức lương ở công ty đó cũng sẽ tương tự như mức lương ở những chỗ khác.
Chú ý: phân tích này giả định rằng chúng ta có một thị trường cạnh tranh với đầy đủ những điều kiện của nó. Chúng ta sẽ bàn đến việc nới lỏng bớt những điều kiện này sau.
· Chúng ta sẽ xem xét tác động của thuế, sức mạnh độc quyền bán, các thị trường sản phẩm phi cạnh tranh ở phần sau trong chương này.
· Chúng ta sẽ bàn tới vai trò của những thất bại thông tin và các hợp động lương bất thường trong phần 6.
· Chúng ta sẽ khảo sát những khác biệt giữa công ty và ngành công nghiệp dựa trên các khía cạnh phi tiền tệ của việc làm như trong phần 7 và 8.
· Chúng ta sẽ thảo luận về tình trạng di cư giữa các vùng và các quốc gia trong phần 9.
· Chúng ta sẽ bàn tới vai trò của các nghiệp đoàn trong phần 10.
· Chúng ta sẽ thảo luận về vai trò của các nghiệp đoàn trong phần 11.
C. Nghiên cứu Điển hình: Thuế tính theo Bảng lương (Payroll Taxes)Chúng ta đã nhắc tới ở phần trên, công ty phải thay người làm thuê chi trả một phần khoản đóng góp của họ vào Thù lao của Công Nhân (Workers' Compensation Board), Chương trình Lương hưu Canada, và Uỷ ban Bảo hiểm Việc làm.
· Những khoản chi này được biết đến như thuế theo bảng lương. Mức thuế này trong thực tế tương đối cao ở một số nước châu Âu.
· Chúng là những biến phí phụ trội của việc công ty thuê thêm nhân công. Thế nên mức lương hiệu dụng (effective wage) là W(1 + tỷ lệ đánh thuế).
· Ở Canada những khoản thuế này tăng một cách đều đặn, từ khoảng 3.2% GDP năm 1980 lên 6.1% GDP năm 1996.
[1]· Một công trình nghiên cứu của Peter Dungan
[2]lập luận rằng những mức tăng dự kiến trong tương lai của loại thuế này sẽ làm mất đi 200,000 việc làm đáng lẽ được tạo ra, làm GDP giảm đi 3 tỷ đô, trong đó tác động lớn nhất là đối với những công việc có thu nhập thấp.
· Chúng ta hãy xem xem quá trình này diễn ra như thế nào.
Phân tích tác động của thuế tính theo bảng lương lên mức lương và số lao động được thuê cũng tương tự như khảo sát một mức thuế bán sẽ tác động như thế nào đến giá của hàng hoá khi đến tay người mua và người bán.
· Hệ quả cơ bản của lý thuyết thuế là việc người mua hay người bán trả thuế không quan trọng - Thế nên các khoản thuế tính theo bảng lương được phân chia theo tỷ lệ khác nhau như thế nào giữa nhà tuyển dụng và người làm thuê có thể có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị song không mấy ý nghĩa về mặt kinh tế.
· Tuy nhiên, một lập luận kinh tế quan trọng đưa ra là gánh nặng thuế má (burden of tax) sẽ được chia sẻ bởi cả hai bên dựa trên độ co dãn tương ứng (relative elasticities) của cung và cầu.
· Tôi sẽ không đi sâu và những lập luận kiểu này. Tôi chỉ muốn lưu ý với các bạn rằng về mặt thực chứng mà nói thì độ co dãn của cung và cầu là tương đương nhau (tính theo giá trị đo lường chính xác), thế nên gánh nặng thuế má sẽ được san sẻ giữa các công ty và người làm thuê theo tỷ lệ xấp xỉ 50-50.
Chúng ta hãy thử xem xét xem tác động của loại thuế này như thế nào.
· Hình 3 dưới đây cho thấy ở mức cân bằng thị trường không thuế tại W0, N0 nhân công được thuê.
· Tiếp đó, thuế % sẽ được áp dụng. Trong ví dụ của tôi, các công ty sẽ chi trả toàn bộ các khoản thuế này.
· Bởi vậy, đối với các công ty thì chi phí hữu dụng của việc thuê lao động lúc này là W(1+thuế).
· Các công ty sẽ tiếp tục thuê lao động cho đến khi MRP = W(1+thuế).
· Một đạo luật thuế được áp dụng có tác động giống như một đợt tăng lương với công ty nên họ giảm nhu cầu lao động của mình.
· Điều này được thể hiện trong đồ thị: đường D
0 xoay một góc thành đường Dthuế, và độ khác biệt giữa hai đường chính bằng tỷ lệ thuế.
· Cầu lao động giảm, khiến mức lương mà người làm thuê nhận được giảm xuống mức W1. Gánh nặng mà người làm thuê phải chịu bao gồm lương nhận được thấp hơn. Thêm vào đó là số việc làm sẵn có ít hơn tại Nthuế.
· Mức lương giảm bù đắp phần nào cho mức nộp thuế cao hơn song các công ty vẫn ở trong tình trạng tồi tệ hơn.Bây giờ, họ phải trả một mức lương hiệu dụng là W1(1+thuế) > W0.
· Thuế lương khiến cho cả công ty VÀ công nhân lâm vào tình trạng tồi tệ hơn, tỷ lệ việc làm tạo ra ít hơn, sản lượng hàng hoá và dịch vụ ít hơn (tác động quy mô). Bởi vậy, GDP thực tế cũng ít hơn.
· Đây là lý do tại sao các nhà kinh tế lại tốn nhiều thời gian đến thế vào việc
phản bác lại thuế lương.
Hình 3 Thuế LươngD. Bùng nổ Dân số sau Chiến tranh Thế giới và Nguy cơ Thiếu hụt Lao động sắp tớiỞ những phần trước chúng ta đã nhận ra rằng những thay đổi sắp tới trong thị trường lao động gây ra bởi thời kỳ bùng nổ dân số sau chiến tranh thế giới bây giờ đã qua.
· Hình 4 ở trang bên cho chúng ta thấy sự phân chia cụ thể của dân số. Dữ liệu này lấy từ CANSIM II.
· Hình vẽ thể hiện những người sinh ra trong giai đoạn này đang bắt đầu đến tuổi về hưu với những người về hưu đầu tiên (ở độ tuổi khoảng 50) về hưu sớm khoảng 5 năm.
· Điều mà chúng ta lo ngại là điều này sẽ gây ra tình trạng thiếu hụt lao động.
· David Foot lập luận rằng lối suy nghĩ này thật ngu ngốc.
<BLOCKQUOTE>
o Thứ nhất, vẫn còn nhiều người đang tiếp tục tham gia vào thị trường lao động - và tiếp đó là số lượng lớn những người ở độ tuổi 20.
o Thứ hai, số người theo học đại học cũng tăng mạnh nên có thể đáp ứng được nhu cầu về lao động có tay nghề.
o Thứ ba, ông viện dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao.</BLOCKQUOTE>
· Thứ tư, không thể có sự thiếu hụt lao động trong một thị trường cạnh tranh?
<BLOCKQUOTE>
o Sự thiếu hụt lao động sẽ dịch chuyển đường cung lao động về phía bên trái, tạo ra dư cầu, khiến cho mức lương tăng cho đến khi nào mức cung lao động quay trở lại ở mức ngang bằng với cầu lao động - không còn sự thiếu hụt lao động nào nữa!
o Tuy nhiên, lao động cũng sẽ trở nên đắt đỏ hơn. Và đây chính là điểm và các nhà vận động đại diện cho lợi ích của các doành nghiệp kêu ca, phàn nàn.</BLOCKQUOTE>
Hình 4 Tháp Dân số dành cho cả hai giới, Độ tuổi 0-69, Canada 2001[3]E. Thị trường Lao động trong các Thị trường Sản phẩm Cạnh tranh không hoàn hảoChúng ta đã xác định được lợi nhuận đem lại từ việc thuê thêm một giờ lao động của một nhân công là MRP = MR x MPP
N.
· Doanh thu cận biên của mỗi loại công ty là khác nhau.
<BLOCKQUOTE>
o Các công ty cạnh tranh hoàn hảo, không giữ sức mạnh thị trường là những
đối tượng chịu mức giá áp đặt (price taker) và có MR = giá sản phẩm.
o Nói cách khác, những công ty này phải đối mặt với đường cầu nằm ngang với các sản phẩm của mình.
o Đối với các công ty này giá trị của một giờ lao động là giá trị cận biên của sản phẩm hay VMP = P x MPP
N.
o Các công ty cạnh tranh không hoàn hảo có một số sức mạnh thị trường trên thị trường sản phẩm, bao gồm sức mạnh độc quyền bán, độc quyền mua, và các công ty cạnh tranh độc quyền.
o Những công ty này có đường cầu dốc xuống phía dưới và lúc đó MR < P.
o Bởi vậy, đối với những cá nhân này thì giá trị của một giờ lao động chính là giá trị doanh thu cận biên của sản phẩm: MRP < VMP.
· Như Hình 5 ở trang bên cho chúng ta thấy, điều này có nghĩa là đường cầu lao động của một công ty cạnh tranh không hoàn hảo nằm ở phía bên trái so với đường cầu lao động của một công ty cạnh tranh hoàn hảo.
o Công ty cạnh tranh không hoàn hảo sử dụng sức mạnh trên thị trường sản phẩm để thu hẹp sản lượng nhằm mục đích tăng lợi nhuận.
o Một khi thu hẹp sản lượng thì họ cũng sẽ thu hẹp số lao động được thuê.</BLOCKQUOTE>
· Chúng ta nên lưu ý rằng kết quả này có thể thay đổi nếu các nhân công được đoàn kết lại với nhau trong một nghiệp đoàn.
<BLOCKQUOTE>
o Vì công ty tạo ra lợi nhuận độc quyền nên nghiệp đoàn có thể buộc công ty phải chi trả mức lương cao hơn so với mức lương thị trường - Xem phần 11 ở cuối giáo trình.</BLOCKQUOTE>
Hình 5 Cầu Lao động của các Công ty Không Cạnh tranhF. Độc quyền muaĐộc quyền mua nói đến một tình huống mà công ty là một người mua lao động duy nhất trên thị trường.
[4]· Các ví dụ sẽ nói tới những liên đoàn thể thao chuyên nghiệp thông qua đồ thị, một công ty mỏ trong một thị trấn nhỏ, một bệnh viện cùng các y tá chăm sóc sức khoẻ cho một khu vực nhỏ hơn và các giáo viên ở những tỉnh nhỏ.
· Cũng giống như công ty độc quyền bán cùng loại, mức độ sức mạnh độc quyền mua phụ thuộc vào việc khả năng thay thế tốt nhất cho công ty này gần đến mức độ nào.
<BLOCKQUOTE>
o Trong Liên đoàn Bóng rổ Chuyên nghiệp hay NHL hốckey, không hề có lấy một lựa chọn thay thế.
o Gần đây người ta đã tổ chức quốc tang cho vận động viên Rocket Richard để tưởng nhớ anh.
o Là một vận động viên chơi hốckey, dù là tay ghi bàn dẫn đầu song anh chưa bao giờ kiếm được hơn $50,000.
o Mãi cho đến vài năm trước khi anh mất, anh đã kiếm sống bằng cách bán cần câu cá, cũng chính là dụng cụ làm thương anh!
o Trong trường hợp bệnh viện, bạn có thể chuyển sang bệnh viện khác. Bởi vậy, tính linh hoạt trong lao động là chìa khoá.</BLOCKQUOTE>
· Chúng ta cũng có thể có một vài tình huống trong đó chỉ có một số ít người mua và độc quyền nhóm mua - ví dụ như nếu bạn muốn thực hiện một hoạt động kiểm toán thì thoạt đầu bạn chỉ có thể làm việc được với một số ít công ty.
Trong các thị trường sản phẩm, các công ty với sức mạnh thị trường sẽ đối mặt với một đường cầu dốc xuống phía dưới.
· Kết quả là MR < P và chúng ta có thể thể hiện nó với đường MR nằm dưới đường cầu.
· Trong các thị trường đầu vào, các công ty phải đương đầu với một đường cung lao động dốc lên phía trên bởi chúng đủ lớn để ảnh hưởng đến thị trường đầu vào.
· Kết quả là chi phí cận biên của việc thuê thêm lao động (MC
N) > mức lương và chúng ta có thể vẽ trên đồ thị đường MCN nằm trên đường cung laođộng như thể hiện trong Hình 6 dưới đây.
<BLOCKQUOTE>
o Nếu một công ty thuê thêm một đơn vị lao động, công ty này phải trả lao động này một mức lương cao hơn để có thể đáp ứng mức lương dự trữ của công nhân này.
o NHƯNG, nếu chúng ta có điều kiện là mức lương trả cho tất cả lao động ngang bằng nhau (không có phân biệt trong tiền lương) thì công ty đó sẽ phải tăng các mức lương của những nhân công khác.
o Kết quả: MCN > W.</BLOCKQUOTE>
· Đối với một công ty cạnh tranh thì MC
N= W vì họ không gây ra được tác động gì đến mức lương khi họ mua lao động.Họ là những đối tượng chịu mức lương ấn định bởi thị trường.
Hình 6 Độc quyền muaTrong một thị trường lao động cạnh tranh, điểm cân bằng đạt được khi đường S giao với đường MRP.
· Kết quả: W
PCvà N
PC.
· Trong trường hợp độc quyềnmua, công ty với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận so sánh MC
Nvới MRP để chọn ra N
ĐỘC QUYỀNkhi MC
N= MRP.
· Công ty này trả cho nhân công mức lương thấp nhất có thể bằng cách đi dọc theo đường cung (S) và tìm ra mức lương độc quyền W
ĐỘC QUYỀN< W
PC.
· Kẻ độc quyền mua thu được nhiều tiền lương hơn nhờ chèn ép nhân công của mình.
<BLOCKQUOTE>
o Chúng ta đã nhấn mạnh đến tiền lương song các công ty này cũng có thể tiết kiệm chi phí bằng cách thay đổi điều kiện làm việc cho nhân công (ví dụ như yêu cầu làm thêm giờ hay yêu cầu làm vào ngày Chúa Nhật, v.v.)</BLOCKQUOTE>
Khả năng trở thành một dộc quyền mua trên thị trường lao động ở mức độ nào?
· Khi khả năng lưu chuyển của lao động tăng, môi trường thông tin tốt hơn, những người làm thuê có nhiều lựa chọn hơn so với trước đây. Bởi vậy, có lẽ khả năng trở thành độc quyền mua có lẽ ít hơn.
· Tuy nhiên, điểm mấu chốt là những thay thế tiềm năng cho người làm thuê.
· Về mặt ngắn hạn, chi phí chuyển việc quá cao đối với người lao động, không có nơi nào khác sử dụng những kỹ năng đặc thù của lao động (ví dụ như thể thao) có thể đồng nghĩa với việc công ty có một số sức mạnh độc quyền nào đó.
· Nguồn sức mạnh độc quyền mua có thể có được từ việc thành lập các tập đoàn những công ty mua lao động - các liên đoàn thể thao chuyên nghiệp là một ví dụ. Các liên đoàn này sử dụng hệ thống draft (hệ thống tuyển chọn vận động viên mới từ sinh viên các trường ĐH được nhất trí giữa các liên đoàn thể thao chuyên nghiệp) để chấm dứt các cuộc chiến đấu thầu.
· Sức mạnh của các công ty độc quyền mua cũng có thể bị sự xuất hiện của các nghiệp đoàn làm suy giảm. Chúng ta có thể thấy được điều này trong phần 11 dưới đây.
Vậy còn sự khác biệt về lương thì sao - chi trả cho những nhân công khác nhau những mức lương khác nhau.
[5]· Ví dụ như bám theo đường cung (S) bạn có thể trả cho nhân công mức lương dự trữ thấp hơn (có ít những lựa chọn thay thế hơn), một mức tiền công thấp hơn và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
· Ví dụ kinh điển của trường hợp này là các bộ môn thể thao. Mức lương trả cho các vận động viên khác nhau rất là khác nhau. Sự khác biệt này tùy thuộc vào những lựa chọn thay thế của các vận động viên (ví dụ như sang châu Ầu để chơi hốckey, sự góp mặt của một liên đoàn mới).
<BLOCKQUOTE>
o Đương nhiên, bạn không thể chỉ đẩy mức lương xuống thấp và lờ đi những tác động khuyến khích thái độ làm việc của người làm thuê (xem phần 6 dưới đây).</BLOCKQUOTE>
Nếu chúng ta xem xét mức lương của vận động viên thay đổi như thế nào một khi họ đạt được vị thế có quyền tự do lựa chọn ông bầu (free agent status) và quá trình đấu thầu bắt đầu thì rõ ràng là trước khi có vị thế này, sức mạnh độc quyền mua vẫn tồn tại.