| Tiêu đề: Công nghệ nano Sun Apr 25, 2010 8:18 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Công nghệ nano Sun Apr 25, 2010 8:19 am |
| | | | | Tính chất mới của ống Nano cacbon Magnesium diboride (MgB2), lần đầu tiên được phát hiện có tính siêu dẫn vào năm 2001, mở ra khả năng ứng dụng lớn cho công nghệ do có nhiệt độ tới hạn cao (39 K - cao nhất trong các hợp kim), có giá rẻ và thành phần hóa học đơn giản.Tuy nhiên, từ trường tới hạn trên (từ trường triệt tiêu tính siêu dẫn) chỉ là từ 14 đến 16 T và dòng tới hạn cũng chỉ đạt 2.104 A/cm2 ở 5 T. Hãy nhớ, MgB2 là vật liệu siêu dẫn loại 2, vì thế nó có 2 từ trường tới hạn và trường tới hạn trên là giá trị tới hạn triệt tiêu tính siêu dẫn, còn giá trị tới hạn dưới (thấp hơn) là giá trị tới hạn mà trường ngoài có thể xuyên vào vật liệu siêu dẫn. Ta biết rằng, để sử dụng các chất siêu dẫn trong các cuộn tạo từ trường, các gốm siêu dẫn có nhiệt độ tới hạn cao rất khó sử dụng nên hợp kim này là sự lựa chọn tuyệt vời.Và mới đây, Serquis cùng các cộng sự đã lần đầu tiên thành công khi đồng thời tối ưu hóa 2 thông số trên bằng cách pha tạp vào vật liệu này các ống nano cácbon có tường đôi (Double-walled carbon nanotubes - DWNTs). Các mẫu khối MgB2 có chất lượng cao được chế tạo bằng phương pháp xâm nhập hơi Mg ở Centro Atómico Bariloche (Áchentina) và sau đó pha tạp các ống DWNTs, sau đó tiến hành đo các tính chất điện và từ bằng các thiết bị phổ thông như từ kế ... trong từ trường xung ở Phòng thí nghiệm từ trường cao (Los Alamos). Họ phát hiện ra rằng, khoảng 3,5% nguyên tử các DWNTs pha tạp vào có thể tạo ra tính chất tối ưu cho MgB2 với giá trị mật độ dòng tới hạn lên tới 5.104 A/cm2 (khi trường ngoài là 5 T) và từ trường tới hạn trên lên tới 44 K (ở nhiệt độ 5 K). Một giá trị khác cũng được ghi lại là từ trường tới hạn trên 41,9 T ở 4 K khi hàm lượng pha tạp là 10% nguyên tử. Điều này có nghĩa là từ trường tới hạn được cải thiện tới 3 lần trong khi mật độ dòng tới hạn cũng được nâng lên tới 2,5 lần. Các hàm lượng DWNTs được xác định chính xác bằng cách phân tích cấu trúc tinh thể bằng phương pháp nhiễu xạ tia X.Theo công trình của nhóm vừa công bố trên tạp chí Superconductor Science and Technology, số 20, trang L12, các kết quả này có thể lý giải bằng 2 vai trò của DWNTs trong cấu trúc của MgB2. Đầu tiên, đó là các ống nanocarbon hòa tan một phần vào các ma trận MgB2, tác động như một nguồn cácbon làm tăng giá trị từ trường tới hạn lên giá trị cao nhất từng được quan sát. Thứ hai, đó là tỉ phần của ống nanocarbon giữ nguyên cấu trúc của nó, sẽ tác động như một tâm hãm các lốc xoáy (vortex pinning centres) trong MgB2, do đó làm tăng đáng kể giá trị mật độ dòng tới hạn. Điều này hoàn toàn có thể bởi đường kính ống cũng tương tự như chiều dài kết hợp của siêu dẫn MgB2Các nhà vật lý cũng cho rằng sự tăng cường này có thể mô tả bằng một trong các mô hình lý thuyết đang được sử dụng như lý thuyết siêu dẫn 2 khe, như là MgB2. Và một phần khác là sử dụng vật liệu này trong các ứng dụng thực tế như nam châm siêu dẫn. Công trình này có thể là một hướng mở ra việc tạo ra các cuộn dây siêu dẫn có từ trường lớn nhờ việc cải thiện giá trị từ trường tới hạn.Kế hoạch sắp tới của nhóm (hợp tác giữa Áchentina và Mỹ) là pha tạp MgB2 với các vật liệu nano khác nhằm cải thiện tính chất của vật liệu: "Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ sản xuất các dây MgB2 đầu tiên cho ứng dụng mà sử dụng hợp phần pha tạp DWNTs " - Serquis phát biểu trên Nanotechweb.org. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Công nghệ nano Sun Apr 25, 2010 8:20 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Công nghệ nano Sun Apr 25, 2010 8:21 am |
| | | | | Liên kết bền chặt với các hạt phân tử kích thước nhỏ nano Phương pháp sử dụng phân tử mang gen di truyền ADN. Một nhóm các nhà nghiên cứu ở Mỹ, thuộc Phòng Thí Nghiệm Năng Lượng Quốc Gia Brookhaven – “U.S. Department of Energy's Brookhaven National Laboratory”, đã khám pha ra rằng có thể gia tăng tốc độ kết nối của các hạt phân tử nano dưới sự trợ giúp của phân tử mang các gen di truyền nòi giống là DNA.Giống như các phương pháp chẩn đoán và điều trị bệnh tiến bộ, có thể đạt hiệu suất cao hơn khi sử dụng các hạt phân tử kích thước nhỏ nano vào việc tạo năng lượng và lưu trữ các thông tin dữ liệu. Cách thức kiểm soát và kết nối các hạt phân tử rất nhỏ vào một hệ thống phân tử lớn hơn vẫn là một thử thách lớn đối với các nhà khoa học. Các kết quả của Phòng thí nghiệm Brookhaven, gồm các bước nghiên cứu theo hướng này, đã được xuất bản trong tạp chí của Hội Hóa Học Mỹ – “American Chemical Society”. Người dẫn đầu cuộc nghiên cứu, tác giả Mathew Maye, một nhà hóa học ở Phòng Thí Nghiệm Brookhaven nói:“Hiểu được cách tự liên kết của các loại vật liệu có cấu tạo là các hạt phân tử kích thước nhỏ nano thì mới có thể ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực công nghệ nano, từ lĩnh vực quang học đến điện tử, cho đến các vật liệu từ trường”. Maye là một thành viên của nhóm gồm các nhà khoa học ở nhiều ban ngành khác nhau thuộc Khoa Sinh học của Phòng Thí Nghiệm Brookhaven và một trung tâm mới về Vật liệu Nano – “Center for Functional Nanomaterials” (CFN). Các nhà nghiên cứu đã tìm ra cách dùng DNA kép, rắn chắc để kiểm soát sự liên kết của các hạt phân tử vàng có kích thước nhỏ nano. Phương pháp kỹ thuật của nhóm nghiên cứu là lợi dụng khuynh hướng tự nhiên của các hạt phân tử để tạo nên các thành phần gọi là thành phần cơ bản, được biết đến dưới các ký tự mã hóa A, T, G và C.Oleg Gang, nhà vật lý học ở Phòng Thí Nghiệm Brookhaven, dẫn đầu nhóm nghiên cứu nói: “Trong sinh học, DNA là một chất lưu trữ thông tin chính; trong khoa học nano, DNA là một vật liệu có cấu trúc tuyệt vời do khả năng tự lắp ráp một cách tự nhiên theo các nguyên tắc đã được lập trình sẵn khá cụ thể. Chúng ta đang phát triển những bước tiến đến việc kiểm soát sự lắp ráp của các vật thể nano vô cơ bằng việc sử dụng các vật liệu sinh học như DNA. Tuy nhiên, để thực sự biến điều lý thú này thành công nghệ kỹ thuật nano, chúng ta phải hiểu được sự tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau cực kỳ phức tạp trong một hệ thống phân tử lai tạo như vậy”. Gắn DNA tổng hợp thường dùng trong phòng thí nghiệm lên trên các hạt phân tử vàng kích thuớc nhỏ nano; điều chỉnh DNA cho phù hợp để có thể chấp nhận và liên kết với DNA bổ sung đang định vị trên các hạt phân tử khác. Quá trình này hình thành nên các tập hợp gồm những bó sợi phân tử, hay các khối hạt vàng. Maye nói:”Thật sự là giống một bản thiết kế. Chúng ta có thể ngồi xuống với một mảnh giấy, viết ra một trật tự DNA, và kiểm soát các hạt phân tử kích thước nhỏ nano kết nối với nhau”. Một nhược điểm của quá trình liên kết này là việc dùng DNA chuỗi đơn, mà chuỗi này có thể bẻ về phía sau và bám trên bề mặt của các hạt vàng thay vì cố kết xung quanh hạt nano. Cùng với nhiều dạng DNA chuỗi đơn hiện nay, tính linh động này có thể làm chậm quá trình liên kết rất nhiều. Trong cuộc nghiên cứu của Phòng Thí Nghiệm Brookhaven, các nhà nghiên cứu đã giới thiệu DNA chuỗi kép, có các phân đoạn cứng rắn chắc; DNA này buộc phải tác động vào các đoạn nối với chúng để dàn trải trên bề mặt các phân tử vàng, cho phép hiệu quả lắp ráp cao hơn. Maye nói:“Với các tính chất của DNA, chúng ta có thể tăng động lực học liên kết, hoặc tốc độ kết nối phân tử, bằng các phương pháp tương đối đơn giản không bao gồm nhiều bước tổng hợp”.Tại Nguồn năng lượng Synchrotron quốc gia Brookhaven – “Brookhaven's National Synchrotron Light Source”, nhóm nghiên cứu đã điều nghiên việc tổng hợp và lắp ráp các hệ phân tử kích thước nhỏ nano với nhiều phương pháp kỹ thuật, như sử dụng các tia sáng và eletron, cũng như dùng các tia X cường độ cao. Các nhà khoa học đang hướng đến việc cải thiện khả năng kiểm soát hệ thống phân tử hơn nữa, và bước kế tiếp là tập trung vào kích cỡ của khối hạt nano. Quỳnh Thi dịch hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Công nghệ nano Sun Apr 25, 2010 8:22 am |
| | | | | CÁC TINH THỂ KÍCH THƯỚC NHỎ NANO CÓ KHẢ NĂNG NÓNG HƠN Các nhà khoa học ở phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley về năng lượng đã khám phá ra rằng các tinh thể kích thước nhỏ nano của germanium, được cố định trên thủy tinh silica, đã không tan chảy cho đến khi nhiệt độ tăng lên gần 2000K, trên cả nhiệt độ nóng chảy của khối germanium. Hơn cả sự ngạc nhiên, các tinh thể kích thước nano này tan chảy ở thể lỏng và được làm nguội ở nhiệt độ hơn 2000K, nhỏ hơn nhiệt độ nóng chảy của khối germamium trước khi các tinh thể nano đóng rắn. Giống một “hiện tượng trễ” lan rộng và gần như đối xứng – sự khác nhau giữa nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ đông đặc ở trên và dưới điểm nóng chảy của khối germanium – trước đây các quan sát đối với những hạt phân tử kích thước nhỏ nano này chưa bao giờ được thực hiện. Để khai thác những tính chất trên có nghĩa là hiểu được sự chuyển tiếp nóng chảy/đông đặc của germanium dưới các điều kiện khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã cố định các hạt phân tử nano với đường kính trung bình 2.5 so với đường kính của silica. Những gì mà các nhà nghiên cứu bắt gặp khi họ gia nhiệt và làm nguội hệ thống phân tử liên kết này là điều phức tạp không ngờ.Gần hàng trăm năm qua, những nhà lý luận và những người làm thí nghiệm đã nghiên cứu làm thế nào mà kích cỡ của một tinh thể ảnh hưởng đến nhiệt độ nóng chảy và đông đặc, đến việc chuyển tiếp giữa thể lỏng và thể rắn của một chất. Hầu hết các tinh thể, kích thước càng nhỏ, nhiệt độ nóng chảy càng thấp. Nhiệt độ nóng chảy của một tinh thể nano bán dẫn hoặc không chứa tinh thể lỏng, tiêu biểu gồm có vài trăm cho đến vài ngàn phân tử, có thể hơn 3000K, thấp hơn nhiệt độ nóng chảy của một khối chất tương tự. Joe Ager, ngành vật liệu học (MSD), đồng tác giả của tờ Physical Review Letters, nói rằng:”Lý do của sự việc này là vật thể rắn càng nhỏ, tỷ lệ phần trăm phân tử của nó tập trung trên bề mặt càng nhiều. Thực tế, nếu vật thể co lại, thì toàn bộ bề mặt đều co lại”. Bên trong một tinh thể chất rắn, các phân tử bị nhốt trong mắt lưới của mạng tinh thể, “nhưng ở bề mặt của những phân tử này vẫn có khoảng trống để di chuyển. Khi nhiệt độ tăng lên, chúng bắt đầu chuyển động; khi sự rung động trên bề mặt phân tử tỷ lệ với chiều dài mối liên kết nhất định giữa chúng, sự nóng chảy bắt đầu xảy ra và sau đó lan truyền qua vật chất rắn. Nhà lý luận Daryl Chrzan, ngành MSD, cũng là 1 giáo sư về khoa học vật liệu ở Đại Học UC Berkeley đã nói: “Nóng chảy và đóng rắn bắt đầu ở bề mặt phân chia chất rắn với bề mặt xung quanh chất rắn. Pha rắn có một năng lượng tự do, chất lỏng cũng vậy, pha hơi cũng tương tự, và trên bề mặt phân chia giữa các pha này có năng lượng mang tính chất riêng của chúng. Có khả năng sự chuyển tiếp pha xảy ra theo một hướng hoặc theo hướng khác dựa trên năng lượng tự do của pha vật liệu đó và năng lượng trên bề mặt phân chia pha của chúng, liên quan đến thể tích, cấu tạo hình học, tỷ trọng và các nhân tố khác”.Ở hầu hết các vật liệu, năng lượng ở bề mặt phân chia pha giữa chất rắn và hơi hình thành một lớp chất lỏng trên bề mặt khi nhiệt độ tăng cao – ví dụ, một thỏi vàng đặt trong không khí, nhiệt độ này nếu tiếp tục tăng cao cho đến khi toàn bộ thỏi vàng nóng chảy; thì lớp chất lỏng mới xuất hiện trên thỏi vàng sẽ cứng hơn ở nhiệt độ thấp hơn do tỷ lệ thể tích bề mặt tăng. Eugene Haller ở phòng thí nghiệm Berkeley về vật liệu học (MSD), cũng là giáo sư về vật liệu học ở Đại Học California ở Berkeley ghi nhận rằng “nếu làm các hạt tinh thể vàng kích thước nhỏ nano tự do đủ nhỏ, chúng sẽ tan chảy ở nhiệt độ phòng”.Tuy nhiên, những tinh thể nano đã được cố định này thường phản ứng khác nhau. Người ta quan sát các tinh thể nano kết gắn với nhau trong ma trận lưới tinh thể ở nhiệt độ khá cao, ví dụ những tinh thể nano của chì gắn vào mạng lưới tinh thể của nhôm aluminum; kết cấu mạng lưới của hai loại tinh thể này “đóng chặt” với nhau, nén các tinh thể nano trong thủy tinh phải nóng chảy khi bị gia nhiệt cao.Đó chỉ là sự nhạc nhiên ban đầu. Trong khối vật liệu lớn, năng lượng ở bề mặt phân chia pha giữa chất rắn và hơi, có sự chuyển tiếp giữa chất rắn thành chất lỏng ở nhiệt độ nóng chảy, tạo ra một rào chắn ở hướng đối ngược nhau, đây là một rào cản năng lượng để đóng rắn.Chrzan nói: “để hình thành bề mặt thì luôn luôn phải cần một năng lượng, thật ra, trong một khối vật liệu, có thể làm khối vật liệu đóng rắn chậm hay giữ khối ở dạng rắn ở nhiệt độ trên điểm nóng chảy/đóng rắn bình thường. Để đóng rắn, vật liệu phải khắc phục rào cản năng lượng nhẹ để hình thành các hạt nhân phân tử rắn tới hạn.Trong trường hợp tinh thể nano cố định trên germanium ở thủy tinh, rào cản năng lượng ở bề mặt phân chia pha cũng dẫn đến sự gia nhiệt cao trước khi tinh thể rắn có thể tan chảy có nghĩa là khi tan chảy bao gồm phải trải qua quá trình chậm đông trước đóng rắn.Quỳnh Thi dịch hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Trang 1 trong tổng số 1 trang | | ::. | Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|
|
|
|
|