| Tiêu đề: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:44 am |
| | | | | MẶT NẠ HÓA HỌC CÓ TỪ BAO GIỜCách đây 2400 năm, chất độc hóa học đã được sử dụng đầu tiên trong lịch sử loài người. Đó là trận Pelepones ở đế quốc La Mã. Trong trận này nghĩa quân Spactacus đã đốt lưu huỳnh dưới chân thành Platee, nhằm đầu độc binh lính đối phương. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918 chất độc hóa học đã được sử dụng một cách rộng rãi. Ngày 22-04-1915 quân Đức đã tung ra 6000 bình chứa chất clo có dung lượng 180 tấn để chống lại liên quân Pháp – Anh ở gần thành phố Ipra (Bỉ). Dùng clo chỉ trong vòng 5 phút, trên một chuyến tuyến dài 6 km, quân Đức đã tiêu diệt cả một sư đoàn đối phương làm mất khả năng chiến đấu của 15.000 người, trong đó có 5000 người bị chết sau đó.
Một tháng sau, quân Đức lại dùng 12.000 bình chứa 150 tấn clo tấn công quân Nga đang đóng ở Ba Lan, làm quân Nga bị tổn thất nặng. Tổng cộng 1 trận binh lính các phe bị nhiễm chất độc hóa học, trong đó có 100.000 người chết.
Để đối phó lại việc sử dụng chất độc của quân Đức, một giáo sư bác học người Nga là Zelinsky đã quyết tâm nghiên cứu tìm ra một thiết bị chống lại khí độc. Tới tháng 06-1915 ông đã hoàn thành chiếc mặt nạ chống độc hóa học đầu tiên. Nó có tác dụng giữ toàn bộ khí độc ở bên ngoài, chỉ có không khí sạch đi qua. Nó đã góp phần đánh bại quân Đức và giúp cho hàng vạn người thoát khỏi cái chết bởi chất độc hóa học. Mạnh Toàn hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:44 am |
| | | | | VÌ SAO ĐÈN NEON LẠI CÓ NHIỀU MÀU?Đèn Neon rất đẹp, ngay tên của nó cũng đẹp, vì sao gọi là đèn Neon? Ở đây có một câu chuyện lý thú.
Vào năm 1898 hai nhà hóa học Anh Ramsay và Traft từ không khí lỏng tìm thấy một chất khí kỳ lạ hiếm thấy, hai ông đem chất khí này cho vào một ống thủy tinh gần chân không, cho dòng điện vào hai đầu ống thủy tinh vốn không màu đã phát ra màu hồng tươi rất đẹp. Ngọn đèn Neon đầu tiên trên thế giới đã được tìm ra như vậy. Hai nhà hóa học hết sức vui mừng. Đối với chất khí kỳ lạ tạo nên ngọn đèn màu đỏ, hai ống quyết định lấy từ tiếng Hy Lạp “neo” có nghĩa là mới để đặt tên. Loại đèn đỏ này được đặt tên là “đèn mới”.
Thế tại sao khi các nhà hóa học đặt tên “đèn mới” mà ngày nay người ta lại gọi là đèn Neon. Nguyên do theo tiếng Hy Lạp từ mới được đọc là Neon nên ngọn đèn mới được gọi là Neon. Chất khí mới được gọi là chất khí Neon, chỉ có thể thêm chữ khí ở phía trước để biểu thị đó là chất khí.
Dùng Neon để chế tạo ngọn đèn màu đỏ, chỉ riêng có màu đỏ đơn thuần thì vấn đề rất đơn giản. Sau này người ta còn tìm cách chế tạo các loại đèn màu lam, màu lục, màu trắng, màu vàng, màu tím… bằng cách kết hợp các loại bột màu phát quang, người ta có thể chế tạo các loại đèn neon có nhiều màu sắc.
Nếu muốn chế tạo các ngọn đèn màu sắc khác nhau, người ta có thể nhờ các bột phát quang màu lục, màu vàng, màu lam, màu trắng. Ví dụ đem bột phát quang quét vào mặt bên trong ống thủy tinh, đem ống thủy tinh uốn thành hình các chữ hoặc hoa văn, lắp các điện cực, hút sạch hết không khí trong ống thay vào đó là khí neon, sẽ được ngọn đèn có màu phấn hồng. Nếu quét lớp bột phát quang màu lam vào mặt bên trong ống thủy tinh sau đó nạp khí argon và thủy ngân sẽ được ngọn đèn neon màu lam tươi. Nếu lại quét bên trong ống thủy tinh loại bột phát quang màu lục rồi nạp khí neon vào ta sẽ có đèn màu đỏ. Nếu thay Neon bằng khí argon và thủy ngân ta sẽ có ngọn đèn màu lục. Cứ thế người ta có thể chế tạo các ngọn đèn neon có màu sắc tùy ý.
Đèn Neon được treo lên các cửa hiệu, biển hiệu, biển quảng cáo, sẽ làm thành phố tươi đẹp lên hơn, đó là mục đích hang đầu của đèn Neon. Khôi Toàn biên soạn Hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:45 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:45 am |
| | | | | TỈ LỆ CÁC NGUYÊN TỐ TRONG CƠ THỂ CHÚNG TA. Hầu hết cơ thể con người được tạo ra từ nước, H2O, Trong mỗi tế bào nước chiếm khoảng 65-90% theo trọng lượng. Vì thế, không đáng ngạc nhiên rằng hầu hết khối lượng của cơ thể chúng ta là oxi. Carbon, thành phần cơ bản của các phân tử hữu cơ, là nguyên tố đứng thứ hai sau oxi. Gần như toàn bộ khối lượng (99%) của cơ thể con người được tạo thành từ sáu nguyên tố: oxi, carbon, hydro, nitơ, canxi, và phốt pho.Sau đây là tỉ lệ phần trăm các nguyên tố trong cơ thể chúng ta: 1. Oxy (65%) 2. Carbon (18,6%) 3. Hydro (9,7%) 4. Nitơ (3,2%) 5. Canxi (1,8%) 6. Phốt pho (1.0%) 7. Kali (0,4%) 8. Natri (0,2%) 9. Clo (0,2%) 10. Magiê (0,06%) 11. Lưu huỳnh (0,04%) 12. Đồng, Kẽm, Selen, Molybđen, Flo, Iot, Mangan, Coban, Sắt (0,70%) 13. Liti, Stronti, Nhôm, Silic, Chì, Vanadi, Arsen, Brom (rất ít)MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NGUYÊN TỐ TRONG CƠ THỂ Chiếm 65% trọng lượng cơ thể, Oxy hiện diện trong nước và trong các hợp chất khác.
Chiếm 18,6% trọng lượng cơ thể, Cacbon được tìm thấy trong mọi phân tử hữu cơ.
Chiếm 9,7% trọng lượng cơ thể, Hydro có trong nước của cơ thể cũng như hầu hết trong các hợp chất khác.
Chiếm 3,2% trọng lượng cơ thể, Nitơ là thành phần của các protein, acid nucleic và trong các thành phần hữu cơ khác.
Chiếm 1,8% trọng lượng cơ thể, Canxi là thành phần chính trong hệ xương của cơ thể,
Chiếm 1% trọng lượng cơ thể, Phốt pho được tìm thấy trong nhân của tế bào.
Chiếm 0,4% trọng lượng cơ thể, Kali chủ yếu được tìm thấy trong cơ và các dây thần kinh.
Chiếm 0,2% trọng lượng cơ thể, Natri là thành phần quan trọng trong chức năng của các dây thần kinh và cơ. Thường được tiết ra qua việc đổ mồ hôi.
Chiếm 0,2% trọng lượng cơ thể, Clo là anion chủ yếu trong dịch thể.
Chiếm 0,06% trọng lượng cơ thể, Magie là cofactor (yếu tố phụ trợ) cho các enzym trong cơ thể.
Chiếm 0,04% trọng lượng cơ thể, Lưu huỳnh là thành phần của nhiều amino acid và protein.
Theo Chemistry About hoahocvietnam.com
|
| | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:45 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:46 am |
| | | | | RẮC MUỐI LÊN ĐƯỜNG ĐI Tại sao rắc muối lên đường đi? Nếu bạn đã từng thắc mắc tại sao người ta lại rắc muối trên đường phố vào mùa đông thì tại sao bạn lại không thử làm một cuộc thí nghiệm nhỏ này, để xem có gì xảy ra nếu bạn cho muối vào cục đá trong tủ lạnh.Bạn cần :1 ít đá 1 ít muối ăn 1 cuộn chỉ nhỏ 1 cái chén hoặc ca Những thứ bạn cần làm :Lấy một ít đá cho vào chén. Tốt nhất là lấy đá hơi ướt, chỉ vừa bắt đầu chảy. Lấy vài sợi chỉ phủ lên trên mặt cục đá. Nếu bạn sử dụng cục đá to quá, bạn có thể quấn chỉ nhiều lần để chắc chắn hơn. Rải một ít muối lên trên cục đá và lên trên các sợi chỉ. Để như vậy khoảng 10 giây. Giờ thì bạn hãy thử nhấc sợi chỉ lên xem nào! Chuyện gì sẽ xảy ra đây?Mẩu đá sẽ dính vào sợi chỉ, bạn cầm nó lên bằng cọng chỉ được luôn đó. Tại sao thế?Nhiệt độ một mẩu đá khoảng 0oC. Nếu bạn rắc muối lên rồi đo thử thì nó sẽ tụt xuống chỉ còn khoảng -8 hay -10oC, thậm chí là -18oC. Thực tế là nhiệt độ F (Fahrenhite) thấp nhất chính là nhiệt độ thấp nhất mà bạn có thể đo được khi thêm muối vào đá. Bạn hãy thử tưởng tượng viên đá như là một mạng lưới to lớn hoặc một cấu trúc ma trận của mớ phân tử nước dính nhau như nam châm. Tất cả các phân tử đều dao động nhẹ, có phân tử chuyển động nhiều hơn phân tử khác. Có nhiều phân tử “loi choi” dao động mạnh đến độ có thể nhảy ra khỏi mẩu đá và tan chảy thành dạng lỏng xung quanh nó. Điều này sẽ lấy đi năng lượng từ mẩu đá. Bình thường thì sẽ có 1 phân tử khác nhảy vào thế chỗ cho anh bạn “loi choi” kia, phục hồi năng lượng, giữ nguyên nhiệt độ cục đá ở mức 0oC. Nhưng nếu có muối vào thì phân tử nước bị chảy ra sẽ “mất tích” luôn vào các phân tử muối, rồi trước khi mà một phân tử nước nào đó kịp nhảy vào thế chỗ, một phân tử khác lại biến mất, rồi lại thêm một phân tử nữa mất tích. Quá nhiều phân tử nước biến đi như thế và đá tan. Làm tan nước đá cần nhiều năng lượng. Khi đá tan, năng lượng được cung cấp bởi không khí, phần nước đá đã tan hay năng lượng từ các vật thể ở xung quanh. Tuy nhiên nếu bạn cố tình làm tan nước đá bằng cách thêm muối, năng lượng làm đá tan sẽ đến từ chính khối nước đá, do vậy nước đá sẽ trở nên lạnh hơn rất nhiều.Vậy chuyện gì đã xảy ra với sợi chỉ?Ở chỗ bạn cho muối vào, mẩu đá bị tan nhiều và chỗ đó trở nên rất lạnh. Ở các phần khác trên đá do không có muối, nước đá tan ra gặp phần đá lạnh có muối sẽ đông trở lại một cách nhanh chóng. Nhờ vậy, sợi chỉ sẽ dính chặt vào mẩu đá và bạn có thể nâng mẩu đá lên nhờ sợi chỉ.Thế thì người ta rắc muối lên đường chi vậy?Lí do người ta cho muối lên mặt đường là để tan chảy tuyết khiến mặt đường bớt trơn trượt. Nước đá khi đó không đóng băng ở 00C mà sẽ có thể ở -5oC. Cho nên mặt đường sẽ chỉ bị đóng băng trong những ngày thật lạnh giá. Ở những nhiệt độ quá thấp (-20 đến -30oC), việc cho muối vào đá sẽ không còn hiệu quả. Khi đó bạn sẽ phải dùng một hóa chất khác. Có thể chọn dùng natri axetat (CH3COONa), chất thường dùng để tạo vị giấm trong các lát khoai tây chiên giòn có vị mặn và chua, nó khá hiệu quả mà lại không gây quá nhiều tác hại đến môi trường. Ngọc Huy(theo The Naked Scientists)hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:46 am |
| | | | | CHẤT HÓA HỌC TRONG THẾ GIỚI SINH VẬT Chất hấp dẫn sinh học là những chất đáng chú ý của sinh vật có tên chung là Feromon. Feromon giúp các loài sinh vật sống trong quần thể nhớ đường đi lối về, tập hợp bầy đàn để tiến công kẻ địch, báo động cho nhau khi gặp nguy hiểm, chỉ cho nhau nơi có thức ăn, phân chia lãnh thổ, điều chỉnh “Trật tự xã hội “ và những hoạt động khác...- “Còi báo động”: đối với loài kiến đông đúc và cảnh giác, Feromon rất cần thiết. Có 25 loại hóa chất khác nhau mang tín hiệu báo động cho 40 loài thuộc 15 giống kiến. Thông dụng nhất là Dehydrolidin và Xetronenxin. Gặp nguy hiểm, tuyến hàm dưới của kiến tiết ra các chất này và chỉ sau vài giây, kiến khác đã nhận được mùi. Nếu nồng độ loãng từ 10-4 đến 10-11phân tử trong 1cm3 không khí, chúng tìm đến để cứu bạn. Nếu nồng độ cao thì bỏ chạy tán loạn.-“Giấy mời họp”: loại Bọ kỳ Xcôly-tét sống trên thân cây lá nhọn. Chú Bọ kỳ này, đầu tiên, tìm được cây để làm tổ sẽ tiết ra chất Tecpen gọi cả bầy đến ở. Loài ong tiết ra chất Trigonauspetera đánh dấu lên cây hoặc vật chung quanh để hấp dẫn đồng loại tìm đến nguồn thức ăn hoặc chỉ rõ khu vực bị chiếm cứ.- “Chủ quyền lãnh thổ”: một loại Feromon nữa là Feromon khoanh vùng, phân chia lãnh thổ. Loại này phổ biến ở động vật có vú như: Cày hương có chất Mút-côn, hươu xạ có chất Xiveton, chồn hôi có hợp chất Lưu huỳnh và một số loài côn trùng có “đời sống xã hội”. Một số chất có tác dụng tự vệ, có loại có mùi để xua đuổi kẻ thù, có loại là chất độc mạnh, gây tê liệt và làm chết đối phương. Châu chấu tiết chất độc lên cây cỏ làm cho những loại gặm nhấm ăn phải trúng độc. Loài ong Phitodictut tiết ra chất có nguồn gốc Protêin như Talaixnhipnotxin, Tetrmin giết hại sâu đục thân.- “Vệ sinh phòng bệnh“: Có một nhà bác học đã tìm ra chất Feromon trong xác kiến và ong. Nhà bác học giết chết một con kiến ít phút sau xác kiến này được bạn khiêng đi đặt nơi xa tổ. Nhà bác học lấy chất đó ở xác kiến chết bôi lên kiến sống, lập tức chú kiến sống cũng được bạn khiêng ra nơi “nghĩa địa” mặc dù chúng vùng vẫy phản đối. Chú ta về tổ lại bị bạn khiêng đi cho đến khi mùi xác chết trên người chú ta bay hết. Chất từ xác chết đó là một Axits béo đã phân huỷ, trước khi kiến chết, kiến tiết ra để thông báo cho bạn kiến làm nghĩa vụ cuối cùng ...- “Tiếng gọi của tình yêu”: nhà côn trùng học GiăngHeri Fadơrow (JeanHenri Fabe) quan sát một hiện tượng thú vị vào buổi sáng, một con bướm nhỏ cắn kén chui ra, được đặt trong một cái lồng bằng kim loại, đến tối ông ngạc nhiên thấy có 40 chú bướm đêm chẳng biết từ đâu bay tới. Những ngày tiếp theo các chàng bướm từ bốn phương bay đến có tới 150 con. Bướm cái quyến rũ bướm đực không bằng sự “kiều diễm” mà còn bằng hợp chất Fagôn. Chỉ cần vài phần nghìn phân tử trong 1cm3 không khí thì tín hiệu đã được đáp lời. Đánh dấu những chú bướm họ Satunude và mang đi xa những khoảng cách khác nhau, sau 30 phút có con đực cách 5 km hay 10 km bay trở về đậu cạnh “ người yêu” đó là nhờ sự hấp dẫn hoá học từ các nguyên tố hóa học trên cơ thể sinh vật.Vũ Công Phong (Biên soạn) hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:46 am |
| | | | | ĐƯỜNG ĐI CỦA KIẾN Bạn có bao giờ tự hỏi kiến làm cách nào để có thể tìm đường đến thức ăn chưa được đậy kín cẩn thận trong nhà bếp của bạn hay không? Hiện nay, các nhà khoa học đã khám phá ra cách các con kiến rừng nhỏ bé tìm đường đi khá xa chỉ với thị lực kém ở những vùng đất mới.Cuộc nghiên cứu này đem lại nhiều lợi ích có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phát triển một loại rôbốt tự động, ngoài ra còn giúp chúng ta hiểu được quá trình học hỏi của động vật cơ bản. Các nhà khoa học thuộc Đại Học Sussex, dưới sự tài trợ của Hội Nghiên cứu Khoa học kỹ thuật Sinh học (BBSRC), đã trình bày chính xác cơ chế tìm đường đi của kiến bằng thị giác. Trên một đoạn củi, chuyến đi lần đầu của kiến đến thức ăn gần đó là theo dấu vết của chất dịch mà những con kiến đi trước để lại. Đây là một cuộc di chuyển chậm chạp vì kiến phải dùng râu rà trên mặt đất để dò tìm đường. Tuy nhiên, chuyến đi đầu tiên về cơ bản khiến cho kiến có thể nhớ đường đi. Ở chặng đi ban đầu, con kiến lưu trữ nhiều hình ảnh về đoạn đường đã đi qua và ở những chặng sau, nó tìm đường bằng cách kết hợp ký ức trên với quang cảnh xung quanh. Các nhà khoa học khám phá thêm rằng con kiến còn lưu nhiều ký ức khác nhau về đoạn đường đó tùy thuộc lúc nó đang trên đường đi tìm hay trên đường đem thức ăn về tổ. Các con kiến lưu trữ nhiều ký ức và có thể dùng đúng lúc đúng chỗ.Các nhà nghiên cứu giải thích rõ hơn về sự lựa chọn ký ức hình ảnh của kiến bằng các thí nghiệm cụ thể. Giáo sư Tom Collett thuộc Trung tâm Thần kinh ở Đại Học Sussex, giải thích:”Để chứng minh kiến dùng ký ức hình ảnh cho việc dò tìm đường, chúng tôi phải huấn luyện nó đi tìm thức ăn trên đoạn đường cách một cây cột trụ khoảng 10cm. Sau đó, chúng tôi tăng kích cỡ của cột lên gấp đôi để con kiến phải tìm đường đến thức ăn xa khoảng 20cm thì nhận thấy kích thước võng mạc của nó về đường đi vẫn giống như cũ”. Để phân tích năng lực gợi nhớ ký ức tìm đường của kiến, các nhà nghiên cứu đã tạo nên một tình huống mơ hồ cho nó: Huấn luyện những con kiến đi tìm thức ăn ở giữa 2 cột trụ kích thước khác nhau, sau đó kiểm tra lại bằng cách đổi 2 cây cột trụ có cùng kích cỡ. Liệu con kiến có biết cây cột nào với kích thước nào không? Con kiến chỉ có thể tìm đến đúng nơi sau khi nó phục hồi lại được tín hiệu về quang cảnh xung quanh. Giáo sư Collett nói rằng:”Để nhận biết cột trụ, con kiến cần dựa vào cảnh xung quanh trên vị trí khác nhau trong giác mạc khi nó tiếp xúc với cây cột. Con kiến có thể phục hồi ký ức chính xác thường do khả năng lưu trữ hình ảnh toàn cảnh của đoạn đường đi tìm thức ăn”. Các hiểu biết sâu hơn về đường đi của kiến hy vọng giúp phát triển loại rôbốt tự động. Giáo sư Collett giải thích:”Hoạt động của côn trùng có khuynh hướng máy móc hơn động vật, và kiến tìm đường đi kém linh động hơn. Dễ hiểu là kiến tìm đường đi dựa vào sự rập khuôn và để thiết kế rôbốt tìm đường thì có thể dựa theo nguyên tắc này”.Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang lên kế hoạch cho nhiều cuộc thí nghiệm sâu hơn có thể cho biết những mức độ chi tiết mới mẻ về khả năng hình ảnh của côn trùng và cho phép xây dựng các hình mẫu ký ức. Giáo sư Julia Goodfellow, trưởng ban quản trị của Hội Nghiên cứu BBSRC, nói:”Nghiên cứu các hệ thống tri nhận giúp cho chúng ta thêm cơ hội hiểu biết cách thức xử lý dữ liệu của động vật, bao gồm con người để từ đó ích lợi cho công tác học tập, suy luận, quyết định và giao tiếp. Hội Nghiên cứu BBSRC đang hợp tác với nhiều Hội Nghiên cứu khác cùng các nhà tài trợ để hỗ trợ cho cuộc nghiên cứu đa ngành mới mẻ trong lĩnh vực này”Quỳnh Thi biên dịch hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:47 am |
| | | | | MÙI “KIM LOẠI” Mùi “kim loại” từ đâu mà có khi chúng ta chạm vào các vật thể làm bằng kim loại như các dụng cụ, đồ dùng, các chắn song, tiền xu? Mùi “kim loại” của các kim loại, nước chứa kim loại và máu là do chất dầu trên da, theo Dietmar Glindemann. Cùng nghiên cứu với một nhóm nghiên cứu của Viện Bách Khoa Virginia và Đại Học Liên Bang ở Mỹ, Đại Học Leipzig và Trung tâm Nghiên cứu Môi Trường Leipzig ở Đức, Dietmar Glindermann đã tiến hành theo dõi các phân tử mùi gây ra mùi “kim loại” này.Ông phát biểu: ”Mùi “kim loại” là một loại mùi của cơ thể người do chất dầu trên da. Thật ra mùi “kim loại” chúng ta đang ngửi thấy là một ảo giác”. Tiến hành bảy cuộc thí nghiệm về vấn đề này cho thấy rằng mùi “kim loại ẩm mốc” sẽ xuất hiện ngay khi chạm tay vào kim loại rắn hay một dung dịch chứa các ion kim loại hóa trị +2. Ngược lại, các dung dịch chứa ion kim loại hóa trị -3 không gây ra mùi. Phân tích dầu trên da cho thấy mùi vị của các hợp chất hữu cơ khác nhau dường như là đặc tính của mùi “kim loại”. Hợp chất chính gọi là 1-octen-2-one, mùi “kim loại ẩm mốc”, vẫn ngửi được mùi ngay cả khi pha loãng. Nguồn gốc của các phân tử mùi này là do các peroxide của chất béo sinh ra khi dầu trên da bị oxy hóa bởi enzym hoặc ở các quá trình khác (ví dụ như oxy hóa dưới tia UV). Sau đó, các peroxide của chất béo bị phân hủy bởi ion kim loại hóa trị -2, khiến các ion -2 này bị khử thành ion hóa trị -3. Khi chạm vào các vật làm bằng kim loại, các ion hóa trị -2 xuất hiện khiến mồ hôi trên da sẽ làm kim loại bị gỉ sét. Máu dính trên da cũng cho kết quả mùi “kim loại” tương tự do các phân tử mùi gây ra. Máu cũng chứa các nguyên tử kim loại. Glindemann nói:”Chúng ta có thể “ngửi” thấy mùi kim loại, giống như “ngửi” thấy mùi của máu. Vì vậy, trước đây, con người có thể lần theo dấu vết của con mồi bị thương hoặc các thành viên bộ lạc”.Trên cơ sở những kiến thức mới mẻ này, các nhà dược học có thể nghiên cứu tiến hành các cuộc thí nghiệm mùi “kim loại” sâu hơn với da, máu và mô tế bào để nhận diện “dấu vân tay” đặc trưng hình thành do phân tử mùi dễ bay hơi như là một dấu hiệu riêng của “mùi” trên mỗi cá nhân, dấu hiệu oxy hóa chất gây căng thẳng thần kinh và dấu hiệu bệnh tật.Các nhà nghiên cứu cũng có thể định rõ đặc điểm của mùi các “kim loại” khác như: carbon và phosphorus chứa trong gang và thép có mùi “tỏi kim loại” khi gặp acid. Cho đến ngày nay, các nhà luyện kim cho rằng mùi “kim loại” là do khí phosphine (PH3). Tuy nhiên, ở nồng độ có thể hít thở được, phosphine tinh khiết (được biết đến như thuốc diệt côn trùng, sâu bọ) là chất cơ bản không mùi. Thủ phạm thật sự gây nên mùi “kim loại” là phosphine hữu cơ, đặc biệt là hợp chất gây mùi với nồng độ cao như methylphosphine và dimethylphosphine. Cấu trúc của chúng giống như một phân tử phosphine với 1 hoặc 2 nguyên tử hydrogen đã được thay thế bởi nhóm methyl (CH3).Quỳnh Thi dịch hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:47 am |
| | | | | Đường phát tia sáng trong bóng tối Tại sao lại phát ra tia sáng khi nhai kẹo hương cây lộc đề của hãng LifeSaver trong tối? Hiện tượng này giống như hiện tượng các con vật Tribbles nhỏ bé trong phiên bản cũ của bộ phim “Star Trek”. Nhưng thật khó giải thích khi đường ma sát với các tinh thể khác thì sinh ra tia sáng rực rỡ, gọi là phát sáng do ma sát. Nghĩa từ “phát sáng do ma sát” bắt nguồn từ Hy Lạp có nghĩa là ma sát và theo nghĩa tiếng La tinh là phát sáng. Giống như việc cọ sát hai que củi với nhau sinh ra lửa, thì tia sáng này phát ra khi ma sát, chà mạnh các chất như đường, thạch anh, khoáng chất phenspat, mica và kim cương khiến chúng vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ. Khi cọ hai que củi khô với nhau, lực ma sát có thể tạo nhiệt đủ làm thành một ngọn lửa nhỏ. Tương tự như thế, lực ma sát của nhiều vật liệu như đường có thể tạo ra không chỉ là tia lửa mà còn là một vụ nổ tĩnh điện như các tia sáng kêu lách tách từ miếng vải khô dính da vào buổi tối mùa đông.Sau đây là cách thức phát sáng của kẹo. Khi nhai kẹo hương lộc đề Wint-O-Green của hãng LifeSaver (hoặc kẹo cứng làm từ đường chính hiệu), các tinh thể đường không đối xứng có khuynh hướng tự nhiên vỡ vụn ra không đều nhau để tách các phần tử mang điện trong phân tử. Do đó electron mang điện âm sẽ tách ra khỏi proton mang điện dương. Tia lửa sẽ phát ra khi các phần tử mang điện đó liên kết lại với nhau, giống như tia sét là do sự hợp nhất điện âm và dương trong đám mây và trong lòng đất. Tương tự các tia sét thông thường, tia sét nhỏ xảy ra khi các phần tử mang điện khuấy động các phân tử nitơ trong không khí. Phân tử nitơ phát ra luồng sáng photon thuộc khoảng tia cực tím mà thường chúng ta không thể nhìn thấy được. Do đó tia sáng phát ra do lực ma sát của đường cũng khó nhìn thấy. (Tuy nhiên, nhiều loại côn trùng, chim chóc và bò sát nhạy tia UV có thể thấy tia chớp do đường rất thú vị). Đó là lý do tiện dụng của kẹo Wint-O-Green thuộc hãng LifeSaver.Tinh dầu cây lộc đề (methyl salicylate) là nguyên nhân chính dẫn đến hiệu ứng phát sáng LifeSaver. Tinh dầu này là một hợp chất quang học hấp thu ánh sáng năng lượng cao, bước sóng ngắn và lại phát ra ánh sáng năng lượng thấp, bước sóng dài hơn. Do đó tinh dầu hương cây lộc đề hấp thụ tia UV tạo thành bởi các phân tử nitơ trong không khí ở trong miệng và phát ra một dòng tia sáng xanh xanh có thể nhìn thấy được gọi là “tia chớp trong miệng”. Điều thú vị là nhiều bí ẩn đằng sau tia chớp LifeSaver được giải mã bởi nhà khoa học tên Sweeting. Các cuộc thí nghiệm trước đây của nhà khoa học Linda Sweeting cho thấy rằng trong cấu trúc tinh thể có pha tạp không tinh khiết thì có thể tạo ra hiện tượng “phát sáng do ma sát” hay cả trong trường hợp với các hợp chất đối xứng.Để tiến hành thí nghiệm làm kẹo phát tia sáng, lấy vài viên kẹo Wint-O-Green của LifeSaver đặt vào trong phòng rất tối có kính soi. Để mắt làm quen với bóng tối trong 10 phút. Sau đó bẻ nhỏ kẹo LifeSaver và nhìn vào gương sẽ thấy phát ra tia sáng màu xanh dương. Để thí nghiệm xem tốt hơn, có thể dùng kìm bẻ nhỏ kẹo Wint-O-Green trong bóng tối – sử dụng một dụng cụ để cắt nhỏ kẹo sẽ làm cho tia chớp sáng hơn khi nhai kẹo trong miệng khiến kẹo bị ướt. (Dùng kìm cũng nhằm giữ gìn răng miệng). Bạn cũng có thể thử thí nghiệm với các loại kẹo đường khác, đường cục lớn, hoặc ngay cả việc kéo băng dính ra khỏi cuộn để có thể thấy nhiều hơn nữa các tia chớp nhỏ vô âm thanh. Quỳnh Thi (Theo Sciencedaily) hoahocvietnam.co | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:49 am |
| | | | | PHẢN ỨNG HAY KHÔNG PHẢN ỨNG?
ĐÓ CÓ PHẢI LÀ VẤN ĐỀ KHÔNG?
Tất cả các thay đổi về mặt hóa học đều là kết quả của các phản ứng. Các phản ứng hóa học lại liên quan đến sự thay đổi của các chất và năng lượng của chúng. Trong một phản ứng hóa học thì chất và năng lượng sẽ không bị mất đi mà chúng chỉ bị thay đổi. Có rất nhiều phản ứng giúp ích cho việc tìm ra sự thay đổi vật chất và năng lượng trong đó có bốn loại phản ứng chủ yếu dưới đây.
Phản ứng tổng hợp Trong một phản ứng tổng hợp, 2 hai nhiều chất đơn giản kết hợp với nhau để tạo thành một chất phức tạp hơn. Hai hay nhiều chất phản ứng tạo thành một sản phẩm là một dấu hiệu để nhận ra phản ứng tổng hợp. Ví dụ: Khí Hydro và khí Oxy kết hợp với nhau tạo thành phân tử phức tạp hơn đó là nước.
Phương trình phản ứng cho phản ứng tổng hợp này như sau:
2H2 + O2 → 2H2O Chất phản ứng + Chất phản ứng → Sản phẩm phản ứng
Để hình dung ra phản ứng tổng hợp, bạn hãy xem hình vẽ dưới đây:
Trong hình họa này, một con chim gầy gòm (chất phản ứng) ăn một con giun đất để tạo ra một sản phẩm đó là một con chim béo hơn.
Phản ứng phân hủy Trong phản ứng phân hủy, một chất phức tạp hơn phân hủy thành từng phần đơn giản hơn. Một chất phản ứng tạo thành 2 sản phẩm. Như vậy về cơ bản thì phản ứng tổng hợp và phản ứng phân hủy là trái ngược nhau. Ví dụ: nước có thể bị phân hủy thành Hydro và Oxy. Phương trình của phản ứng phân hủy như dưới đây.
2H2O → O2 + H2 Chất phản ứng → Sản phẩm phản ứng + Sản phẩm phản ứng
Hình dung phản ứng phân hủy sẽ giống như hình họa dưới đây:
Trong hình họa này quả trứng (chất phản ứng) chỉ chứa một con rùa, khi nở sẽ là một con rùa con (sản phẩm phản ứng) và cái vỏ trứng (sản phẩm phản ứng), và bây giờ là 2 chất riêng biệt.
Phản ứng thế đơn Trong một phản ứng thế đơn, một nguyên tố không kết hợp, thay thế một nguyên tố khác trong một hợp chất. Hai chất phản ứng tạo thành 2 sản phẩm phản ứng. Ví dụ: Khi kẽm phản ứng với axít HCl, thì kẽm sẽ thay thế nguyên tố Hydro của axít để tạo thành ZnCl và giải phóng khí hydro. Phương trình phản ứng như sau:
Zn + 2HCl → ZnCl2 + H2 Chất phản ứng + Chất phản ứng → Sản phẩm phản ứng + Sản phẩm phản ứng
Tôi mặc áo màu trắng đang nhảy vũ điệu Samba với một cô bạn gái trong một buổi dạ hội, đang nhảy và cười nói vui vẻ, bỗng đâu có một anh chàng đẹp trai và phong độ hơn tôi đến lân la, và kết quả là bạn gái của tôi nhảy chung với anh ta và đẩy tôi qua một bên (Quả là anh ta có nhiều hấp lực hơn tôi, tính phản ứng cao hơn). Thế có buồn không chứ?
Phản ứng thế đôi (phản ứng trao đổi) Trong một phản ứng trao đổi hai hợp chất trao đổi các nguyên tố cho nhau để tạo thành 2 hợp chất mới. Hai chất phản ứng tạo thành 2 sản phẩm phản ứng. Ví dụ: Khi Bạc nitrat phản ứng với Natri clorua thì có hai chất mới Bạc clorua và Natri nitrat sẽ được tạo thành bởi vì Natri và Bạc đã hoán chuyển vị trí cho nhau. Phương trình phản ứng như sau:
AgNO3 + NaCl → AgCl + NaNO3 Chất phản ứng + Chất phản ứng → Sản phẩm phản ứng + Sản phẩm phản ứng
Hình dung phản ứng trên xảy ra như hình họa dưới đây:
Năng lượng của các phản ứng hóa học Các phản ứng hóa học xảy ra đều có liên quan đến việc năng lượng thay đổi. Năng lượng được sinh ra và mất đi. Năng lượng được thu vào hoặc giải phóng trong các phản ứng hóa học. Có thể mô tả các phản ứng hóa học dưới dạng phản ứng tỏa nhiệt và phản ứng thu nhiệt.
Các phản ứng thu nhiệt Các phản ứng cần cung cấp năng lượng để xảy ra gọi là phản ứng thu nhiệt (Endothermic Reaction). Năng lượng thu vào thường là năng lượng dưới dạng nhiệt hay điện năng. Điện hóa các oxít kim loại có thể tách được kim loại và oxy. Điện phân Natri clorua có thể tách được Natri và khí Clo.
Phản ứng tỏa nhiệt Phản ứng mà trong đó năng lượng được giải phóng gọi là phản ứng tỏa nhiệt. Năng lượng được giải phóng là thế năng của các liên kết hóa học của các chất phản ứng. thông thường một lượng nhiệt tỏa ra làm nóng sản phẩm phản ứng. Các phản ứng tự bốc cháy đều là phản ứng tỏa nhiệt (Exothermic Reaction).
h2vnteam(USOE)
hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:49 am |
| | | | | MÀU CỦA LÁ Màu sắc của lá là kết quả của sự tương tác các sắc tố khác nhau được sản sinh ra bởi cây. Các lớp sắc tố chính gây ra màu sắc của lá là: porphyrins, carotenoids và flavonoids. Màu sắc mà ta quan sát được phụ thuộc vào thành phần tỷ lệ và loại sắc tố hiện diện. Trong phạm vi hóa học, còn có sự ảnh hưởng một cách đặc biệt của độ pH tới màu sắc của lá cây. Lớp sắc tố | Loại hợp chất | Màu sắc | Porphyrin | chlorophyll | green | Carotenoid | carotene and lycopene xanthophyll | yellow, orange, red yellow | Flavonoid | flavone flavonol anthocyanin | yellow yellow red, blue, purple, magenta |
Sắc tố của cây cỏ về hóa học: Ta hãy xét kỹ hơn cấu trúc phân tử và chức năng các sắc tố chủ yếu của cây.Porphyrins: có cấu tạo như sau: Chất porphyrin chính trong lá cây có màu xanh “lá cây” được gọi là chlorophyll. Có nhiều công thức cấu tạo hóa học khác nhau của chlorophyll (ví dụ: a-chlorophyll và b-chlorophyll. Chlorophyll được sản sinh từ ánh sáng mặt trời. Khi mùa thay đổi và lượng ánh sáng mặt trời giảm đi, lượng chlorophyll sản sinh ra ít đi, nên nên màu xanh của lá giảm đi. Chlorophyll sẽ bị phân hủy thành các thành phần đơn giản hơn nên màu của lá sẽ dần dần mờ đi khi sự sản sinh ra chlorophyll chậm lại hoặc ngừng hẳn. Carotenoids:Những mẫu carotenoids tìm thấy trong lá cây có chứa lycopene, chất có màu đỏ, và xanthophyll, chất có màu vàng. Cây cỏ không cần ánh sáng để sản sinh ra carotenoids, cho nên những sắc tố này luôn hiện diện trong cây còn sống. Ngoài ra, carotenoids phân hủy cũng rất chậm nếu so sánh với chlorophyll. FlavonoidsFlavonoids chứa một nhóm diphenylpropene. Các mẫu flavonoids có chứa flavone và flavol, có màu vàng, và có chứa anthocyanins, có các màu đỏ, xanh, hay tím phụ thuộc vào nồng độ pH. Các chất Anthocyanins, như cyanidin, cung cấp một màng chắn ánh nắng mặt trời tự nhiên cho cây. Trong cấu trúc phân tử của một anthocyanin có chứa một hợp chất nhóm đường. Anthocyanin sẽ có màu thay đổi theo độ pH, vì vậy độ acid sẽ ảnh hưởng đến màu lá. Sự tạo ra Anthocyanin cũng yêu cầu có ánh sáng, vì vậy vào những ngày nắng lá cây sẽ có màu tươi sáng nhất.Sự thay đổi màu vào mùa thu:Lá có màu xanh vì nó có chứa lượng chlorophyll dồi dào. Chlorophyll sẽ che các sắc tố khác. Anthocyanins, lần lượt, sẽ che màu của carotenoids. Khi mùa hè dần chuyển sang mùa thu, mức độ chiếu sáng giảm là nguyên nhân làm cho việc sản sinh ra chlorophyll chậm dần. Cùng lúc, anthocyanin được sinh ra nhiều hơn trong lá. Những chiếc lá chứa các anthocyanins chính sẽ chuyển sang đỏ. Những chiếc lá chứa nhiều lượng anthocyanins và carotenoids sẽ có màu da cam. Còn nếu chứa carotenoids và một lượng ít hoặc không có anthocyanins sẽ có màu vàng. Nếu thiếu những sắc tố trên, thì những thành phần hóa học khác của cây cũng có ảnh hưởng lên màu của lá. Chất tannins là một ví dụ, nó gây ra màu nâu nâu của một số lá cây sồi.hoahocvietnam.com | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:50 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:50 am |
| | | | | Thử độ tươi (mới) của bột mì
Bột mì để lâu, do tác dụng của oxy, nước, vi sinh vật trong không khí, có thể sinh ra hiện tượng bị chua, hư hỏng. Muốn biết bột mì có còn tươi mới hay không, có thể dùng chất thử hoá học để kiển định đơn giản, như sau:
1. Lấy một bình thuỷ tinh hình nón, dung tích 150ml. Cho vào bình 40ml nước cất, rồi cho 5 gam bột mì biết chắc là tươi, mới vào bình, khuấy trộn đều, cho tới khi không còn cục bột nào ở trong nước. Tiếp đó nhỏ vào 5 giọt dung dịch chất thử phenolphatalêin, lắc đều. Lúc này dung dịch trong bình thủy tinh hình nón là không màu.
Pha loãng dung dịch natri hydroxyt (NaOH) 0,02%. dùng ống nhỏ giọt pipet (có khắc vạch trên ống) để hút dung dịch natri hydroxyt 0,02%, nhỏ giọt vào bình hình nón. Vừa nhỏ, vừa lắc đều bình hình nón cho tới khi dung dịch trong bình chuyển sang màu đỏ nhạt, trong 1 - 2 phút cũng không bị mất màu đó thì dừng lại, ghi số lượng dung dịch natri hydroxyt đã dùng chuẩn độ.
2. Sau đó lấy 5g bột mì cần thử độ tươi, mới. Cho bột đó vào bình hình nón cùng với 40ml nước cất, 5 giọt phenolphtalêin, khuấy đều, và cũng dùng dung dịch natri hydroxyt 0,02% để chuẩn độ như với bột mì tươi, mới. Ghi lại số lượng dung dịch natrihydroxyt khi dung dịch bột trở nên có màu đỏ nhạt, không mất màu trong vòng 1 - 2 phút.
Nếu lượng dùng dung dịch natri hydroxyt khi chuẩn độ bột mì cần thử mà tương tự như lần chuẩn độ bột mì tươi, mới (lần chuẩn độ trên) thì tin chắc bột mì cần thử là tươi, mới; còn nếu dung dịch NaOH nhiều hơn 2,5 lần so với lần chuẩn độ bột mì tươi, mới thì bột mì đã tồn trữ quá lâu, không thể dùng ăn được nữa.
Thành phần chủ yếu của bột mì là tinh bột (C6H10O5)n. Tinh bột giữ lâu thì dần dần phân giải thành glucose; glucose trong điều kiện thích hợp, lại phân giải thành các loại axit hữu cơ. Phenolphtalêin không có màu trong dung dịch axit có màu đỏ trong dung dịch kiềm. Do hàm lượng axit hữu cơ cao trong bột mì biến chất nên không thể dùng nó để ăn. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:50 am |
| | | | | Cách phân biệt nhanh gạo nếp và gạo lốc
Lấy mấy hạt gạo nếp và gạo lốc đã nấu chín, lần lượt đặt lên hai tấm thủy tinh khác nhau. Nhìn hình chắc bên ngoài thì chúng rất khó phân biệt được đâu là hạt gạp nếp và đâu là hạt gạo lốc. Có cách gì để phân biệt nhanh hai loại hạt đó không? Có. Và xin giới thiệu một cách hay, mời bạn thử xem.
Tìm một lọ cồn Iốt vẫn thường dùng để sát trùng, tiêu độc trong ngành y. Lần lượt nhỏ 1 giọt cồn Iốt lên hạt gạo lốc và hạt gạo nếp ở trên hai tấm thủy tinh. Sẽ thấy hạt gạo lốc khi tiếp xúc với Iốt thì hiện ra màu xanh lam, và hạt gạo nếp khi tiếp xúc với Iốt thì hiện ra màu đỏ nâu.
Như vậy, thật đơn giản mà thật nhanh phân biệt hạt gạo nếp và hạt gạo lốc.
Hàm lượng tinh bột của gạo lốc, gạo nếp đều phong phú. Thế thì vì sao khi chúng gặp iốt lại đổi màu khác nhau?
Giải thích.Những hạt tinh bột trong gạo lốc có mạch phân tử thẳng (khối lượng phân tử khoảng 200.000 đơn vị cacbon), tựa như những que gỗ được xếp thành đống rất thứ tự, liên tiếp nhau; còn tinh bột trong gạo nếp là tinh bột có mạch phân tử phân nhánh (khối lượng phân tử khoảng 1.000.000 đơn vị cacbon), giống như những khúc gỗ được chặt xong xếp đồng ngẫu nhiên với nhau.
Ăn thực phẩm làm bằng gạo nếp thì no lâu hơn do tinh bột của gạo nếp có mạch phân tử phân nhánh, không dễ được cơ thể tiêu hóa. Cho nên không nên ăn quá nhiều thực phẩm bằng gạo nếp một lúc. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:51 am |
| | | | | Cách tìm Vitamin C
Muốn biết trong rau nào có vitamin C hay không có thể kiểm tra nhanh bằng cách sau đây:
C ho vào bình thuỷ tinh một ít tinh bột, rồi một ít nước, khuấy trộn bằnh que nhỏ đều tinh bột và nước, nhỏ 2 - 3 giọt rượu lốt vào hỗn hợp nước - tinh bột màu trắng sữa thì hỗn hợp đó đổi thành màu tím xanh.
Lấy 2 - 3 tàu rau xanh, tước lá rau chỉ để lại cuống lá, rồi đem ép lấy dịch từ cuống lá, sau đó từ từ nhỏ vào hỗn hợp tinh bột - iốt màu tím xanh, vừa nhỏ vào, vừa lắc. Khi đó, bạn sẽ phát hiện: Dung dịch màu xanh tím lại biến màu, trở thành màu trắng sữa.
Do tinh bột gặp Iốt thì biến thành màu tím xanh - đó là đặc tính của tinh bột. Nhưng, vitamin C làm cho iốt bột biến thành dung dịch không màu.
Khi nhỏ dịch rau vào hỗn hợp tinh bột có chứa Iốt thì do có tác dụng của vitamin C trong dịch rau mà Iốt biến thành chất lỏng không màu. Cho nên hỗn hợp vốn có màu xanh biến thành hỗn hợp tinh bột màu trắng sữa. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:52 am |
| | | | | Thổi khí làm đổi màu
Lấy một ít vôi cho vào trong cốc thuỷ tinh, thêm nước lạnh, khuấy trộn, để lắng rồi gạn lấy phần dung dịch trong, không màu vào một chiếc cốc. Bạn cắm một đầu ống hút vào cốc, một đầu ống hút thì ngậm trong miệng mà thổi hơi vào cốc đựng nước vôi. Chỉ một lát, bạn sẽ thấy nước vôi đang trong, không màu trở nên đục, vẩn.
Nhưng tiếp tục thổi, bạn sẽ thấy dung dịch trong cốc biến trở lại thành trong suốt.
Nước vôi chứa trong cốc khi gặp phải khí cacbonic có trong hơi bạn thở ra sẽ phản ứng tạo ra canxi cacbonat. Canxi cacbonat là những hạt rất nhỏ, không dễ lắng, kết tủa nên lơ lửng trong nước, cho nên bạn thấy nước trở nên vẩn đục màu trắng sữa. Khi tiếp tục thổi khí cacbonic vào trong cốc thì do canxi cacbonic phản ứng với nó tạo ra canxihydro cacbonat là chất tan trong nước nên chất lỏng trong cốc lại biến thành trong suốt.
Nước trong biến thành nước đục
Chọn 2 chiếc cốc thuỷ tinh, một chiếc đựng nước (nước máy, hoặc nước sông), một chiếc đựng nước đun sôi để nguội. Sau đó cho thêm vào mỗi cốc 5 giọt nước xà phòng đã lọc qua bông y tế khuấy trộn đều. Một lát sau bạn sẽ thấy nước trong cốc đựng nước lạnh rất đục, có nhiều kết tủa trắng, còn ở cốc đựng nước đun sôi để nguội thì rất ít kết tủa, nước cùng không đục nhiều.
Nước lạnh có chứa nhiều chất khoáng và các tạp chất khác, như canxi, magiê... Chúng cũng như muối ăn (NaCl) hoà tan trong nước vậy. Sau khi cho xà phòng vào trong nước thì số những chất muối khoáng đó sẽ "vướng víu" lại cùng với nhau, biến thành kết tủa trắng, không tan trong nước. Những chất khoáng và tạp chất càng nhiều, kết tủa càng nhiều.
Nếu đem đun sôi nước, trong quá trình đun sôi, một bộ phận chất khoáng và tạp chất đã "chạy" ra khỏi nước, biến thành cặn nước bám vào thành bình nấu nước. Do thế, tạp chất trong nước đun sôi để nguội ít hơn so với nước chưa đun sôi, và sau khi cho thêm vào xà phòng, chất kết tủa cũng sẽ ít hơn.
Chất khí trong nước uống có gaz
Những ngày nóng nực, mọi người thích uống nước uống có gaz. Bạn có thấy trong nước uống có gaz có nhiều bọt không? Đó là khí gì vậy? Nó có ích gì với chúng ta? Hãy làm thí nghiệm sau để tìm các câu giải đáp.
Tìm một miếng bọt xốp gọt thành một chiếc nút chai, đục một lỗ ở góc nút để lồng khít vào một ống cao su.
Ở trong một lọ rộng miệng, đặt vào một cây nến đang cháy.
Mở nắp chai nước uống có gaz, dùng chiếc nút chai đã chuẩn bị để nút miệng chai nước uống có gaz, để một đầu ống cao su thò vào trong lọ rộng miệng, rồi nhè nhẹ xóc chai nước uống có gaz thì chất khí bốc lên trong chai nước uống có gaz sẽ theo ống cao su sang lọ rộng miệng, chỉ lát sau đã làm tắt ngọn nến đang cháy.
Nếu thử chuyển đầu ống cao su cắm vào trong nước vôi, nước vôi trong sẽ trở nên đục ngầu.
Chúng ta có thể phán đoán chất khí trong nước uống có gaz chính là khí cacboníc. Khi uống nước có gaz thì sẽ không ngừng ợ ra thứ khí đó, từ đó mà thải ra theo một phần nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Hoá Học Vui Sun Apr 25, 2010 8:53 am |
| | | | | Nổi, chìm những viên long não
Trong một cốc đựng giấm thả vào mấy viên long não thì thấy các viên long não đều chìm xuống đáy cốc. Khi đó, thêm vào cốc một lượng nhỏ sôđa (Na2CO3) sẽ thấy các viên long não nổi dần lên, nhưng sau khi nổi lên tới mặt nước trong cốc nó lại chìm xuống đáy cốc, cứ như vậy lặp đi lặp lại, trông rất thú vị.
Vì sao viên long não lại nổi lên, chìm xuống trong cốc nước như vậy.
Giải thích: Sôđa gặp giấm thì pháp sinh phản ứng hoá học tạo ra bọt khí cacboníc (CO2). Bọt khí cacbonic bám vào bề mặt viên long não, tựa như những "cái phao" buộc vào viên long não, làm cho viên long não được nâng lên. Khi chất khí trong bọt khí khuếch tán vào không khí thì viên long não mất "phao" đỡ nên lại chìm xuống. Quá trình cứ lặp lại như vậy.
Nhũ tương: dầu và nước
Cho nước sạch vào tới nửa bình của một bình thuỷ tinh trong suốt, thêm vào một ít dầu ăn. Khi đó dầu nổi trên mặt nước, mặt phân cách giữa dầu và nước rất rõ ràng. Dùng tay lắc bình thuỷ tinh, để cưỡng bức dầu và nước tạo thành một pha; khi để yên một lúc thì dầu và nước lại phân thành hai lớp trên dưới rõ ràng.
Khi đó lại cho thêm vào trong bình một ít chất tẩy rửa (hoặc bột giặt quần áo), sau đó lắc bình thật kỹ rồi quan sát sẽ thấy dầu và nước không còn phân tầng thành hai lớp nữa mà hoà làm một với nhau.
Giải thích: Bởi chất tẩy rửa có một thuộc tính đặc biệt là có thể bao vây từng giọt dầu, đem phân tán đều trong nước; tác dụng như thế được gọi là "tác dụng nhũ hoá". Hỗn hợp nước và dầu được hình thành nhờ tác dụng nhũ hoá được gọi là "nhũ tương". Sữa, dầu gan cá thu màu trắng sữa mà mọi người vẫn uống đều ở dạng nhũ tương.
Bột giặt có thể khử đi vết dầu trên quần áo chất tẩy rửa có thể tẩy sạch ố dầu là do chúng có thể tách phân tử dầu trên quần áo để đưa vào trong nước.
Vì sao không thể dùng nước nóng để tẩy, giặt vết máu?
Vết máu dính trên quần áo cần phải lập tức giặt sạch, nếu không thì một thời gian sau, vết máu sẽ rất khó khử đi hết. Không được dùng nước nóng để giặt tẩy vết máu mà chỉ có thể dùng nước lạnh. Về điều này có thể dùng thực nghiệm để giải thích.
Lấy hai miếng vải trắng, lần lượt nhỏ lên từng tấm vài giọt máu gà vừa cắt tiết. Đem một miếng vải ngâm trong nước nóng, và đêm miếng vải kia ngâm vào nước lạnh. Sau khoảng 15 phút, vớt hai miếng vải đó ra, sẽ thấy vết máu trên miếng vải ngâm trong nước nóng có màu đỏ đen, còn trên miếng vải ngâm trong nước lạnh thì vết máu vẫn đỏ tười và nhạt đi.
Lấy xà phòng xát và giặt hai miếng vải thì thấy: Vết máu trên miếng vải đã từng ngâm trong nước lạnh thì giặt sạch hết, còn ở miếng vải đã từng ngâm trong nước nóng thì không còn cách nào giặt sạch được!
Protein trong dịch máu khi gặp nhiệt độ cao thì phát sinh chuyển biến hoá học. Vết máu khi chưa phát sinh những biến đổi hoá học thì có thể tan trong nước, còn sau khi đã có những biến đổi do tác dụng của nhiệt thì trở nên không tan trong nước. Có thể quan sát thực tế điều trên ở máu gà: Sau khi đun nóng thì máu gà trở thành "miếng tiết" không thể tan được nữa, và do vậy vết máu không đễ giặt tẩy sạch.
Cũng với lý do trên, vết máu khi để ra ngoài không khí một thời gian dài thì cũng phát sinh những biến đổi hoá học. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc không dễ giặt tẩy vết máu đã cũ.
Dung dịch hành viết... thư mật
Lấy hai nhánh hành, cắt bỏ lá chỉ giữ lại nõn hành, dùng tay bóp cho chảy ra dịch của hành sau đó dùng bút lông chấm vào dịch của hành để viết lên một trang giấy trắng. Để vài phút cho dịch hành khô, và khi đó không còn thấy nét chữ trên tờ giấy trắng nữa. Nhưng khi đem hơ tờ giấy trắng đó trên ngọn lửa của cây nến thì những nét chữ màu nâu sẽ lập tức hiện ra.
Dịch của hành có thể làm cho giấy phát sinh biến đổi hoá học, hình thành một chất tương tự như màng trong suốt vậy. Điểm cháy của chất đó thấp hơn sơ với điểm cháy của giấy, nên khi hơ trên lửa, nó sẽ bị cháy, dẫn tới hiện ta nét chữ màu nâu.
Giấm trắng, nước chanh (nước vắt từ múi quả chanh...) đều có đặc tính này, nghĩa là cũng có thể dùng để viết... "thư mật"! | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Trang 1 trong tổng số 1 trang | | ::. | Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|