| Tiêu đề: Sơ lược về hóa lý Thu Apr 22, 2010 10:12 am |
| | | | | PHÂN LOẠI ĂN MÒN KIM LOẠI Trước tiên, chúng ta có thể hiểu ăn mòn kim loại là sự tự phá huỷ kim loại do tác dụng hoá học và điện hoá học của nó với môi trường bên ngoài. Hoặc một định nghĩa ăn mòn kim loại là sự phá huỷ tự phát các kim loại gây ra bởi các quá trình hoá học hoặc điện hoá học xảy ra trên bề mặt kim loại tiếp xúc với môi trường ngoài (vd. khí quyển, nước biển, môi trường phản ứng, vv.).Dạng ăn mòn kim loại phổ biến nhất là gỉ sắt. Gỉ sắt (có thành phần Fe2O3.nH2O) không bền và xốp nên không bảo vệ được sắt khỏi bị ăn mòn. Hằng năm khoảng 10% kim loại khai thác được bị ăn mòn, không sử dụng được. Có thể chống sự ăn mòn kim loại bằng cách sơn, tráng men, tạo màng bảo vệ, mạ một lớp kim loại khó bị ăn mòn như crom, niken hoặc bằng cách sử dụng protectơ.
Phân loại1. Theo cơ chế của quá trình ăn mòn. - Ăn mòn hoá học : là quá trình ăn mòn do tác dụng hoá học giữa kim loại với môi trường . - Ăn mòn điện hoá: là quá trình ăn mòn do tác dụng điện hoá học giữa kim loại với môi trường; phản ứng điện hóa xảy ra trên 2 vùng khác nhau của bề mặt kim loại: vùng anốt và vùng catốt. Tốc độ ăn mòn phụ thuộc vào điện thế điện cực của kim loại, môi trường ăn mòn, nhiệt độ … 2. Theo điều kiện của quá trình ăn mòn. - Ăn mòn khí : ăn mòn kim loại trong khí thường xảy ra ở nhiệt độ cao. - Ăn mòn khí quyển : ăn mòn kim loại trong khí quyển tự nhiên. - Ăn mòn trong chất điện giải : ăn mòn kim loại xảy ra trong chất lỏng dẫn điện. - Ăn mòn trong đất. - Ăn mòn do dòng điện ngoài: ăn mòn điện hoá do tác dụng của dòng điện 1 chiều bên ngoài. - Ăn mòn tiếp xúc: là dạng ăn mòn điện hoá gây ra do kim loại có điện thế khác nhau tiếp xúc với nhau. - Ăn mòn do ứng suất: là dạng ăn mòn do tác dụng đồng thời của môi trường ăn mòn và ứng suất cơ học. - Ăn mòn do sinh vật: trong một số môi trường do một số vi sinh vật hoạt động tiết ra những chất làm tăng quá trình ăn mòn. 3. Theo đặc trưng của dạng ăn mòn. * Ăn mòn toàn bộ: trên toàn bộ bề mặt kim loại bị ăn mòn. - Ăn mòn đều: tốc độ ăn mòn trên bề mặt kim loại như nhau. - Ăn mòn không đều: tốc độ ăn mòn không đều nhau trên bề mặt kim loại. - Ăn mòn chọn lựa: chỉ phá huỷ một pha nào đó trong cấu trúc hợp kim, hay một cấu tử nào đó của hợp kim. * Ăn mòn cục bộ: chỉ một vài phần trên bề mặt kim loại bị ăn mòn. - Ăn mòn vết: tạo thành những vết dài trên bề mặt kim loại. - Ăn mòn hố: ăn mòn tạo thành hố có chỗ sâu, chỗ nông. - Ăn mòn điểm: ăn mòn ở dạng điểm khác nhau đường kính là 0,1 – 1,2 mm . - Ăn mòn dưới bề mặt: ăn mòn ban đầu trên bề mặt nhưng dần dần ưu tiên dưới bề mặt. - Ăn mòn giữa các tinh thể: ăn mòn này rất nguy hiểm vì không thay đổi dạng bề mặt bên ngoài, nhưng làm giảm nhanh độ bền và độ dẻo của kim loại. - Ăn mòn nứt: khi tác động đồng thời hai nhân tố là ăn mòn và cơ học. Kim loại không những nứt ở giữa các giới hạn hạt mà còn xuyên qua tinh thể. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Sơ lược về hóa lý Thu Apr 22, 2010 10:12 am |
| | | | | CÔNG NGHỆ ENECO CUNG CẤP GIẢI PHÁP HOÀN HẢO CHO PIN NÓNG QUÁ MỨC Tháng 9 năm 2006 vừa qua với sự thu hồi của hàng triệu pin của Sony, Appple, Dell... đã đưa ra phương pháp tiết kiệm năng lương của Eneco. Sản phẩm Chip nhiệt của Eneco, là một kiểu chất bán dẫn mới, giải quyết vấn đề hiện hữu của việc nóng quá mức, thêm vào đó sẽ cung cấp công suất hiệu quả hơn và rẻ hơn nhiều do tuổi thọ cao hơn, cho phép máy tính xách tay sử dụng lâu hơn nhiều giờ và nạp điện lại gần như tức thời.Những báo cáo rộng rãi rằng những nguồn pin mà có sự nhiễm bẩn hạt kim loại trong suốt quá trình sản xuất. Điều này tạo ra một đốm nóng cục bộ mà có thể dẫn đến một hiệu ứng lan truyền và có thể bắt lửa từ nhiệt đu­ợc phát sinh , mà lần lư­ợt đốt nóng vùng xung quanh nó trong pin máy tính xách tay. Kĩ thuật Eneco là kĩ thuật thông minh, hệ thống dựa trên chip nhiệt mà nhiệt nội tại được truyền sang điện năng.Chip nhiệt có những đặc trư­ng :Năng lư­ợng gấp 5 lần những pin Ion-lithi hiện thời.Trọng lượng và kích thước phù hợp với máy tính xách tay.Công nghệ bán dẫn, hiệu quả cao, tuổi thọ cao và phí bảo trì thấp.Tiết kiệm nhiệt và điện.Có thế dùng cho những ứng dụng từ nhỏ đến lớn hơn. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Sơ lược về hóa lý Thu Apr 22, 2010 10:12 am |
| | | | | THÀNH CÔNG TRONG VIỆC LIÊN KẾT CÁC PHÂN TỬ Để 2 phân tử nối với nhau bằng mối liên kết cơ học chặt chẽ mà không nối với nhau bằng mối liên kết hóa học là 1 thách thức lớn đối với khoa học. Hiện nay, một nhóm các nhà nghiên cứu Anh và Mỹ đã triển khai một nhóm phân tử mới gồm các phân tử liên kết chặt chẽ lẫn nhau và đã tạo ra một phiên bản điển hình đầu tiên. Các nhà nghiên cứu đặt tên cho hợp chất mới này là “chuỗi alkan” - “suitanes”, dựa trên việc các chất có cấu tạo phần phía trên giống nhau với 2 mối liên kết hoặc nhiều hơn, phần phía trên của hợp chất này này liên kết với nhau và trở thành một khối phân tử “tương hợp”. Biết được số nhánh chính thông qua số nhánh liên kết trong hợp chất đó: 1 chuỗi alkan có 2 nhánh, 1 chuỗi alkan có thể có 3 nhánh nhánh, và 1 chuỗi alkan có thể tới 4 nhánh. J. Fraser Stoddart, người tiên phong trong lĩnh vực hóa học hợp phân tử, giải thích: 1 chuỗi alkan giống như 1 con búp bê mặc quần yếm liền gồm 5 bộ phận liên kết: 2 chân, 2 tay và 1 cái đầu.Một nhóm nghiên cứu do Stoddart dẫn đầu (Đại học California, Los Angeles) và David J. Williams (Imperial College, London) đã tổng hợp thành công một đại diện tiêu biểu đơn giản nhất của loại hợp chất này: 1 chuỗi alkane. Đầu tiên, họ sử dụng máy vi tính giả vờ tấn công vào phân tử. Bên trong phân tử – phần “cơ thể” – sẽ trở nên hơi cứng và có hình chữ nhật ; chuỗi phân tử từ nhiều hợp chất này phải gồm các phân tử linh động có thể lắp ráp chung quanh phần “cơ thể”. Giống như 1 bộ quần áo được may khéo léo, tất cả các hợp chất riêng biệt đó phải liên kết hoàn hảo với nhau về cấu tạo hình dáng, kích cỡ và nhóm chức. Đầu tiên các nhà nghiên cứu tạo ra 1 khung phân tử cứng, thẳng: 1 vòng thơm ở trung tâm gắn với 2 “bờ vai” căng phồng (hệ thống chuỗi anthracene), mỗi “bờ vai” lần lượt nối với “cánh tay” phân tử. Tiếp theo, phân tử được lắp ráp vào chuỗi alkan. Cuối cùng, sắp xếp từng phân tử lại với nhau và “khâu vá” để nối chúng: trong quá trình phân tử tự sắp xếp, 2 phân tử vòng benzen lớn (hay phân tử ete hình 5 cạnh) gắn vào phân tử như nối tay áo vào “cánh tay” vậy. Phần thân trên, cánh tay, và tay áo phân tử có các liên kết hóa học để hỗ trợ giữ chặt tay áo phân tử. Bước kế tiếp, thêm vào 1 phân tử khác nhỏ hơn (vòng thơm). Mỗi phân tử này chứa 2 nhóm nguyên tử (nhóm amino), và được xếp đặt vị trí liên kết phù hợp toàn phân tử với nhau; mỗi phân tử này được thiết kế để tiến vào lực liên kết phân tử với nhau và liên kết với 1 điểm trên mỗi cánh tay áo phân tử. Ở bước cuối cùng, thành lập mối liên kết hóa học ở 4 điểm tiếp xúc này; do đó vòng thơm nối 2 cánh tay phân tử với 1 phân tử đơn cấu tạo cồng kềnh, phân tử cồng kềnh này hoàn toàn gắn chặt với phần trên của phân tử đó mà không nối bằng liên kết hóa học.Stoddart nói: “Khám phá cách nối 1 phân tử với 1 phân tử khác là bước đầu để xây dựng tạo nên những hệ thống nhân tạo như đến tế bào sống.” | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Trang 1 trong tổng số 1 trang | | ::. | Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|
|
|