| Tiêu đề: Sơ lược về hóa Dược Thu Apr 22, 2010 10:07 am |
| | | | | NHƯỢC ĐIỂM CỦA VIRUS CÚM Nhược điểm của virus cúm là phân tử protein ở tận cùng chuỗi ADN của nó. Một nghiên cứu nổi bật từ ĐH Rice và ĐH Texas ở Austin đã khám phá ra mục đích mới đầy tiềm năng mà thuốc kích thích thần kinh có thể tấn công vào những triệu chứng của bệnh cúm, bao gồm cả những nguyên nhân của bệnh cúm gia cầm cũng như những nguyên nhân bình thường có thể gây bệnh cho hàng triệu người trong mùa cảm cúm.Những cuộc nghiên cứu, những tài liệu được xuất bản trực tuyến bởi Nature, cung cấp những dấu hiệu thuyết phục về khả năng ứng dụng trong y dược của chất tiềm ẩn trong một loại protein cúm được gọi là nucleoprotein, hay NP. NP có vai trò quan trọng điều khiển bộ trạng thái của những triệu chứng của bệnh cúm loại A, bao gồm cúm Hong Kong, cúm Tây Ban Nha, cúm gia cầm. Mục tiêu là đoạn NP dài, linh động nằm ở cuối chuỗi. Những nhà hóa sinh ở Rice và UT đã tìm ra rằng sự thay đổi nhỏ ở đoạn cuối của chuỗi đã ngăn cản NP thực hiện một trong những vai trò của nó – liên kết những cấu trúc chính mà virus dùng để truyền tải những bản sao của nó. Phó giáo sư hóa sinh và sinh học tế bào, nhà nghiên cứu hàng đầu Jane Tao đã nói “Nó là một liên kết nhỏ ở đầu móc cuối của phân tử protein và là yếu tố được trông đợi của một loại thuốc chống virus mới”
“Những nghiên cứu về gen trước đây cho chúng ta biết rằng cái vòng ở tận cùng đó là nguyên nhân chính của tất cả triệu chứng xuyên suốt của bệnh cúm loại A, vì thế loại thuốc tập trung vào đoạn cuối này có tiềm năng lớn chống lại hiệu quả những triệu chứng phức tạp, bao gồm cả triệu chứng của H5N1. Những loại thuốc chống virus mới là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay khi mà những biến thể của dòng virus H5N1 đã kháng lại loại thuốc trị cúm Tamiflu”. Những nghiên cứu của giáo sư Tao là nền tảng cho những cuộc thí nghiệm nghiêm ngặt hơn sau đó nhằm khám phá ra cấu trúc nguyên tử của NP. Cấu trúc của protein đã được phân tích bằng tia X dưới góc độ tinh thể học, phương pháp đó cho phép các nhà khoa học phân tích sự sắp xếp của cấu trúc bậc 3 của nguyên tử trong một tinh thể căn cứ vào lúc sự nhiễu xạ của tia X đi xuyên qua nó.
Giáo sư Tao đã cho biết việc này là một nhiệm vụ khó khăn để tinh thể NP protein phát triển. Phương pháp này bao gồm việc đình chỉ sự bốc hơi chất lỏng của dung dịch protein đậm đặc trên mặt bên dưới của tấm kính được bịt kín trong bình kín. Khi chất lỏng trong những giọt nhỏ bay hơi, phân tử protein trở nên quá bão hòa, và trong vài trường hợp chúng tạo thành những tinh thể nhỏ với kích thước hàng trăm miron. Giáo sư Tao ước lượng rằng, nhà nghiên cứu sau tiến sĩ Qiaozhen Ye, người đồng sự, đã chuẩn bị 1000 bình kín với nhiều giọt nhỏ cho mỗi bình, để thu được khoảng 100 những tinh thể cần cho các cuộc thí nghiệm.
NP là một trong duy nhất 11 protein được mã hóa bởi bộ gen của bệnh cúm loại A. Một trong những chức năng chính là chức năng cấu trúc. Một tế bào vật chủ bị tấn công bởi một virus, và chuyển hóa chúng trong một nhà máy tái tạo virus, những NP tập hợp lại với nhau thành những vòng nhỏ như là những khối cấu trúc. Nhiều vòng NP tụm lại ở một đỉnh thành chuỗi xoắn ốc dài theo phương thẳng đứng. Cấu trúc RNA của virus xoắn xung quanh trục và gây nhiễm độc tế bào. “NP có 500 amino acid và phần tận cùng của nó chứa 30 acid amin”, giáo sư Tao nói. “Chúng tôi đã tìm ra rằng sự đột biến duy nhất trên phần còn lại của 30 acid amin cũng đủ để ngăn cản những NP tập hợp lại với nhau thành kết cấu dạng cột, và không có những cấu trúc đó virus không thể sao mã và tấn công những tế bào khác”.
Giáo sư Tao cho biết công trình nghiên cứu đã cung cấp toàn bộ những chứng cứ về vai trò của NP như là dấu hiệu nhận biết tế bào nhằm bắt đầu thực hiện sự sao chép bộ gen của virus, và nhóm nghiên cứu của giáo sư Tao vẫn tiếp tục công việc này với cộng sự Robert Krug ở ĐH Texas, Austin để khảo sát chức năng điều tiết của protein.Công trình nghiên cứu được tài trợ bởi tổ chức Welch, Viện sức khỏe quốc gia, Quỹ Khoa học quốc gia về Nano và các sáng kiến khoa học | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Sơ lược về hóa Dược Thu Apr 22, 2010 10:07 am |
| | | | | NƯỚC SIÊU OXY HÓA DIỆT KHUẨN Các nhà khoa học Mỹ thuộc công ty Oculus (tại California) vừa tạo ra một dung dịch siêu kháng khuẩn có thể làm mau lành các vết thương.
Dung dịch này có khả năng giết vius, vi khuẩn và nấm không hề thua kém các loại thuốc khử trùng khác, kể cả có thể diệt khuẩn cầu vàng (MRSA hay EDRM), một loại vi khuẩn có sức đề kháng cao với nhiều loại thuốc khử trùng. Theo Andrés Gutiérrez, giám đốc y khoa của Oculus, dung dịch mới còn có ưu điểm là không gây hại đến các mô tế bào lành xung quanh vết thương, thêm vào đó còn làm cho các mạch máu lưu thông đẩy nhanh quá trình làm lành vết thương. Nước siêu oxy hóa diệt khuẩn có thành phần chủ đạo là Microcyn, các ion oxy-chlorine, các phần tử tích điện có khả năng phá vỡ vách tế bào các vi khuẩn tự do và không gây ảnh hưởng đến tế bào con người. Để tạo ra sản phẩm này, người ta cho nước qua một màng thấm muối natri clorua (NaCl), sau đó đưa hỗn hợp qua một dòng điện phân cao để thu các ion oxy-chlorine. Dung dịch được tạo ra có độ pH trung tính và không gây hại đến các mô tế bào.
Theo tạp chí New Scientist, hiện nay dung dịch đang được dùng thử trong việc chữa trị chứng loét bàn chân ở những bệnh nhân tiểu đường và mang lại nhiều kết quả lạc quan. Với dung dịch nước siêu oxy hóa, vết thương ở những bệnh nhân này có thể lành trong khoảng 40 ngày thay vì 55 ngày với phương pháp điều trị hiện tại. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Sơ lược về hóa Dược Thu Apr 22, 2010 10:07 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Sơ lược về hóa Dược Thu Apr 22, 2010 10:07 am |
| | | | | TẾ BÀO SỐNG ĐỘNG VẬT VÀ CÁCH THỨC TẠO PROTEIN Các nhà khoa học thuộc Trung Tâm Y Dược ở Đại Học Duke đã cho thấy làm thế nào trong một cơ thể động vật còn sống thì các tế bào sử dụng quá trình sinh học tới hạn để tách rời và lắp ghép gene nhằm tạo ra nhiều loại protein đặc biệt.Những nhà khoa học này nói rằng các khám phá trên đã được tiến hành thí nghiệm với chuột, giúp giải thích điều kỳ diệu then chốt ở sinh học con người là: làm thế nào mà những gene tương tự như nhau ở mỗi tế bào trong cùng một cơ thể lại có thể sản xuất nhiều protein khác nhau trong mô và các cơ quan khác. Các loại protein khác nhau đó lần lượt quy định chức năng cho mỗi mô hay cơ quan. Các nhà khoa học nói khám phá này đồng thời cũng giúp hiểu rõ hơn về nhiều căn bệnh hiểm nghèo, bao gồm bệnh ung thư, chính là một quá trình tiến triển của gene – gọi là quá trình lắp ghép có lựa chọn – nếu quá trình này sai lệch sẽ sinh ra nhiều protein khiếm khuyết.Các nhà khoa học đã công bố khám phá này vào ngày 1 tháng 12 năm 2006 trên tờ tạp chí RNA. Cuộc nghiên cứu được tài trợ bởi Viện Y Tế Quốc Gia. Nhà điều tra nghiên cứu nhiều thâm niên, Mariano Garcia-Blanco, Thạc sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư về lĩnh vực phân tử gene và vi sinh học cho biết trước đây các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu quá trình lắp ghép có lựa chọn ở mô và ở tế bào trong ống nghiệm, nhưng cuộc nghiên cứu này chỉ đánh dấu sự thành công bước đầu quan sát ở động vật. Ông nói: ”Chúng ta có thể quan sát quá trình lựa chọn và lắp ghép xảy ra ở các mô khác nhau. Đó là một ví dụ tuyệt vời cho thấy các phương pháp thí nghiệm trong các cơ quan bộ phận của cơ thể đã cung cấp toàn cảnh về hoạt động của gene và protein sâu sắc hơn thí nghiệm chỉ sử dụng tế bào nuôi cấy để nghiên cứu”.Cách nay 20 năm, nhiều nhà khoa học vẫn tin tưởng rằng một loại gene chỉ có thể tạo ra một loại protein nhất định. Với khám phá về quá trình lắp ghép có lựa chọn này thì rõ ràng là một loại gene có khả năng sản xuất ra nhiều loại protein khác nhau.Trong quá trình lựa chọn và lắp ghép, một “cái kéo” nhỏ trong đoạn gene có nhiệm vụ tách rời RNA thành nhiều đoạn nhỏ gọi là “chuỗi polynucleotide mã hóa protein”, sau đó “cái kéo” này lại nối ghép các đoạn nhỏ đó theo một trật tự khác nhau và hình thành nên một phân tử RNA mới. Trong quá trình trên, nhiều “chuỗi polynucleotide mã hóa protein” được duy trì như cũ nhưng cũng có những chuỗi khác bị loại ra ngoài. Các “chuỗi polynucleotide mã hóa protein” được giữ lại trong đoạn RNA mới thì quyết định loại protein nào mà đoạn RNA này sẽ sản xuất trong tế bào. Trong hầu hết các tế bào, “cái kéo” tách rời gene chính là những protein được gọi là protein ẩn làm nhiệm vụ lắp ghép và chuỗi nucleotide hoạt hóa tăng cường lắp ghép. Trong một cuộc nghiên cứu gần đây, nhóm của Garcia-Blanco đã tìm kiếm nhận dạng protein ẩn nào tách rời đoạn RNA quan trọng trong một đoạn gene và được gọi là chất nhận phát triển sợi mô liên kết (FGFR 2). Đoạn gene này có vai trò quan trọng trong việc phát triển ở chuột và ở người bình thường, và trật tự mà trong đó RNA của đoạn gene trên được lắp ghép có thể làm thay đổi sự phát triển ở động vật. Các nhà khoa học đã tạo ra những đoạn gene có khả năng phát sáng như là một hệ thống điển hình cho cuộc nghiên cứu. Trên đoạn gene phát sáng FGFR2 đó là thẻ huỳnh quang màu xanh lá có nhiệm vụ phát sáng khi một loại protein ẩn, còn gọi là chuỗi polynucleotide không mã hóa protein ẩn, đang phân tách một chuỗi polynucleotide mã hóa protein gọi là chuỗi IIIb. Theo phương pháp này, các nhà khoa học có thể theo dõi xem chuỗi polynucleotide không mã hóa protein ẩn có đang tách chuỗi IIIb hay không – và nếu như vậy, thì xảy ra ở mô hoặc ở cơ quan bộ phận nào – hay loại protein ẩn và protein trợ giúp nào đã tham gia vào quá trình phân tách này.Vivian I. Bonano, sinh viên mới tốt nghiệp Chương trình Đại Học về di truyền học và sinh học phân tử và cũng là tác giả cho bài nghiên cứu trên tạp chí nói rằng bằng cách quan sát đoạn gene phát sáng, nhóm nghiên cứu nhận thấy tế bào trong hầu hết các mô đã phản ứng như nhau đối với chuỗi polynucleotide ẩn IIIb, nhưng tế bào đã sử dụng nhiều loại protein ẩn và protein trợ giúp để thực hiện quá trình này. ”Sau đó, nhận diện chuỗi polynucleotide không mã hóa protein ẩn nào hoạt hóa trong tế bào hay trong các cơ quan bộ phận của cơ thể sẽ giúp cho các nhà khoa học hiểu rằng bằng cách nào các chuỗi polynucleotide mã hóa protein xấu xuất hiện hoặc bị đào thải đối với nhiều quá trình gây nên dị tật”. Ví dụ, hoạt động của một tế bào kể cả chuỗi polynucleotide IIIb là tới hạn vì sự hiện diện hay vắng mặt của chuỗi này quyết định sản xuất ra loại biến thể nào của protein FGFR2. Theo các nhà khoa học thì những biến đổi nhỏ như thế trong protein có thể làm thay đổi hoạt động của tế bào, ví như thay đổi thành phần trong một công thức nấu ăn ngon có thể làm biến đổi hương vị thực phẩm. Garcia-Blanco nói: ”Công tác quan sát các hoạt động lựa chọn lắp ghép là phù hợp nhất ở tế bào động vật, bởi vì các tế bào phản ứng trong môi trường tự nhiên thì khác so với trong môi trường nhân tạo, ví dụ như môi trường nuôi cấy tế bào trong phòng thí nghiệm chẳng hạn”. Sự phức tạp của việc lắp ghép có lựa chọn này đòi hỏi phải quan sát được hoạt động lựa chọn lắp ghép đó vào thời điểm đang xảy ra, bởi vì lấy tế bào ra khỏi môi trường thì chỉ thấy được tình trạng hiện thời mà không thể biết được tế bào đã đến vị trí lắp ghép thích hợp như thế nào”. Ví dụ, quá trình lắp ghép có thể thay đổi thậm chí mỗi ngày khi động vật phát triển, việc thêm vào các tế bào trích ly và quan sát trong môi trường nuôi cấy phòng thí nghiệm không thể thấy hết các biến đổi tạm thời này. Hơn nữa, các loại tế bào não khác nhau hay ở các cơ quan bộ phận khác có thể có các quyết định lựa chọn lắp ghép khác nhau. Ví dụ, các tế bào neuron gần tế bào liên kết thần kinh hỗ trợ trong não, ấy thế mà các tế bào này lại có loại protein khác nhau với số lượng khác nhau, và thăm dò sự khác nhau ở các tế bào nuôi cấy trong phòng thí nghiệm có thể thấy mức độ khác nhau rõ rệt. “Đây là một công cụ hữu hiệu để ứng dụng vào gene của chuột nhằm nghiên cứu thời điểm và nơi chốn mà trong cơ thể động vật, các hoạt động quyết định lắp ghép có lựa chọn xảy ra và thậm chí để nghiên cứu những nhân tố nào tới hạn trong các hoạt động lắp ghép đó”.Ông nói thêm: ”Đưa tầm quan trọng của quá trình lắp ghép có lựa chọn vào lĩnh vực sức khỏe và bệnh tật, thì việc hoạch định cho ngành giải phẫu học đối với vấn đề hoạt động lắp ghép có lựa chọn trên có thể cho chúng ta hiểu biết sâu sắc đáng kể trong các bệnh tật ở con người liên quan đến những nguyên tắc lắp ghép sai lệch”. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Tiêu đề: Re: Sơ lược về hóa Dược Thu Apr 22, 2010 10:08 am |
|
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
|
| | | | Tiêu đề: Re: Sơ lược về hóa Dược Thu Apr 22, 2010 10:08 am |
| | | | | Quan sát thuốc liên kết với tế bào như thế nào
Các nhà khoa học khám phá ra cách để quan sát thuốc liên kết với tế bào như thế nào. Bằng một phương pháp mới thông qua việc sản xuất những phân tử platinum rỗng có cấu trúc nhỏ nano, các nhà nghiên cứu John Shelnutt và Yujiang Song thuộc Phòng Thí Nghiệm Quốc Gia Sandia đã khám phá ra cách tốt hơn để thấy được vị trí nơi tế bào có liên kết với thuốc.
Cuộc nghiên cứu này sẽ xuất hiện trong một bài báo sắp phát hành của Tạp chí hóa học Đức - Angewandte Chemie Int. Ed. Trước khi xuất bản, cuộc nghiên cứu này đã trở thành đề tài nóng bỏng trên website của tạp chí. Phòng Thí Nghiệm Quốc Gia Sandia là Phòng Thí Nghiệm Quản lý An toàn Hạt nhân Quốc gia.
Trong bài báo này, Shelnutt và Song mô tả cách thức mới sử dụng các hạt liposome làm nền để sản xuất những hạt hình cầu platinum rỗng, xốp với kích thước nhỏ nano. (Liposome là các túi chứa chất lỏng, kích thước cực nhỏ, trong cơ thể có nhiệm vụ dẫn truyền vaccine, enzyme, thuốc).
Trước đây, nhóm của Shelnutt đã làm được các tấm platinum kích thước nano liên tục trên liposome, tạo thành platinum cấu trúc bọt kích thước nhỏ nano. Phương pháp này không kiểm soát được hình dạng và kích cỡ tạo thành.
Phương pháp mới nêu ra trong bài báo là một kỹ thuật tạo ra các mạng lưới platinum xốp, kích thước nhỏ nano, đường kính trên 200nm, khác với phương pháp trên. Thay vì sử dụng những tấm platinum lớn như trên, thì sẽ bao gồm các platinum cấu trúc nhánh nhỏ, bằng phẳng – gọi là nhánh hình cây – hòa nhập với nhau tạo thành một mạng lưới hay một lồng lưới theo hình dạng khối cầu của hạt liposome.
Shelnutt và nhóm của ông đã dùng liposome làm nền với một lớp lipid kép. Liposome chứa trong dung dịch muối platinum. Khi ánh sáng rọi vào những liposome này, thì chất xúc tác quang học trong khoảng hẹp giữa hai lớp lipid chuyển hóa electron thành ion platinum. Các nguyên tử platinum tự do đó kết hợp thành các khối kim loại nhỏ. Một khi các khối kim loại này đạt đến một kích cỡ nào đó, chúng sẽ hoạt hóa và xúc tác sự phát triển của các nhánh hình cây platinum và gắn thêm các nguyên tử platinum từ muối platinum vào nhánh. Từng chút một, các nhánh hình cây platinum nhỏ, bằng phẳng hình thành bên trong lớp lipid kép.
Shelnutt nói:” Điều quan trọng là phải đảm bảo số phân tử hoạt hóa quang học, do đó sẽ đảm bảo được số lượng khối platinum hình thành thật nhiều bên trong lớp kép liposome. Như vậy, platinum nhánh hình cây tạo thành sao cho đủ độ bền khít để tạo nên hình dạng theo hạt cầu liposome”. Khi các hạt liposome bị vỡ, thì các hạt hình cầu platinum vẫn như cũ không thay đổi.
Có thể kiểm soát bề dày của vỏ platinum xung quanh hạt hình cầu liposome bằng cách gia tăng hay giảm lượng platinum trong dung dịch muối.
Shelnutt nhận thấy có nhiều ứng dụng quan trọng đối với quá trình này, bao gồm cấu trúc sinh học “thẻ nano” ví dụ như các phân tử thuốc.
Shelnutt nói rằng:” Sẽ phải ghi trên nhãn dược phẩm là liên quan với một phân tử porphyrin, dùng ánh sáng để phát triển hạt phân tử kích thước nano sau khi đã cho thuốc liên kết với tế bào. Bằng kính hiển vi điện tử, ta có thể quan sát thấy các hạt kích thước nhỏ nano, khám phá khu vực các phân tử trên tế bào liên kết với thuốc. Kỹ thuật thẻ nano cũng có thể ứng dụng trong các lĩnh vực không thuộc sinh học như tìm lỗi trên bề mặt bán dẫn”. | | | | |
Hãy cảm ơn bài viết của Jimmy Nguyễn bằng cách bấm vào"" nhé!!!
|
| | | | Trang 1 trong tổng số 1 trang | | ::. | Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
|
|
|
|
|
|
|